Phàm là một cá thể nhỏ bé trong đó, đều mong muốn Bang Hội mình được trở nên lớn mạnh, xưng bá quần hùng. Trận chiến so tài ngày một căng thẳng và dằn co thế lực giữa các Bang Hội với nhau, các trận tỷ thí nảy lửa, khốc liệt liên tục diễn ra tại chiến trường Trác Lộc Cổ Đại. Tọa lạc tại số 28 Võ Văn Tần quận 3, thành phố Hồ Chí Minh, thông qua những gì trưng bày, du khách tham quan có thể phần nào thấy được sự ác liệt của chiến tranh cũng như sự can trường của người dân Việt Nam. Người Mỹ nói gì khi nhìn lại chiến tranh Việt Nam: Sau đó là trận thua ngược 2 - 3 khó tin trước EDG một lần nữa tại vòng loại khu vực. Những tưởng đội tuyển này sẽ gặp phải cơn ác mộng thua ngược và phải ngồi nhà xem CKTG, nhưng chính con bài Fiora thương hiệu của Breathe đã đưa ĐKVĐ MSI thắng lợi nghẹt thở để có suất thứ 4 đại diện LPL tham dự giải Xét về kẻ địch trên chiến trường, các đơn vị Nodachi Samurai có thể dễ dàng làm tan nát hàng phòng ngự của đối phương nhưng hoàn toàn có thể bị đánh bại nếu bạn để họ đánh theo kiểu lì lợm như các Naginata. Sử dụng Nodachi không chỉ mang lại nhiều lợi thế trên Quá trình này được lặp đi lặp lại trong suốt cuộc xung đột". Cuộc chiến pháo binh tại Donbass diễn ra ác liệt đến mức Ukraine đang thiếu hụt nghiêm trọng đạn phảo và khẩn cấp yêu cầu phương Tây viện trợ thêm những vũ khí này mặc dù chính phủ Mỹ đã cam kết cung . Qua những bộ phim, những câu chuyện kể chắc hẳn các em đã từng chứng kiến nghe kể đến những trận chiến quyết liệt, đó có thể là cuộc chiến giữa những lực lượng đối lập, cũng có thể là cuộc chiến của chính dân tộc Việt Nam với các thế lực ngoại xâm. Hãy kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh. Bài viết liên quan Kể lại một trận thi đấu thể thao ở trường em Kể một câu chuyện về đề tài Chiến thắng bệnh tật. Soạn bài Kể chuyện Kể chuyện đã nghe, đã đọc trang 120 SGK Tiếng Việt 5 Kể một câu chuyện mà em đã được nghe, được đọc về tính trung thực Đoạn văn ngắn kể lại một trận thi đấu thể thao mà em đã có dịp xem Đề bài Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnhMục Lục bài viếtI. Dàn ý chi tiếtII. Bài văn mẫu 1. Bài mẫu số 1 2. Bài mẫu số 2 3. Bài mẫu số 3 4. Bài mẫu số 4Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnhI. Dàn ý Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh 1. Mở bài Giới thiệu về trận chiến ác liệt mà em định kể em đã đọc, đã nghe kể hoặc xem trên màn ảnh 2. Thân bài- Mở đầu và hoàn cảnh xảy ra trận chiến ác liệt+ Câu chuyện diễn ra vào không gian, thời gian nào?+ Nguyên nhân dẫn đến trận chiến ác liệt?- Diễn biến trận chiến+ Sự chuẩn bị của quân ta+ Tinh thần chiến đấu, sự chỉ huy tài tình của quân ta+ Miêu tả thế trận, quang cảnh trận đánh ác liệt- Kết quả trận chiến+ Quân ta giành thắng lợi hoàn toàn+ Quân địch thua cuộc thảm bại. 3. Kết bàiNêu cảm nghĩ của em về trận chiếnII. Bài văn mẫu Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh 1. Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh, mẫu số 1 ChuẩnTrải hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước dân tộc ta đã anh dũng quật cường chống lại rất nhiều thế lực ngoại xâm, nói về những trận chiến vĩ đại nhất của lịch sử dân tộc không thể không kể đến trận chiến trên sông Bạch Đằng năm 938. Cuối năm 938 quân Nam Hán lấy cớ sang xâm lược nước ta lần hai, chúng chọn con đường biển để tấn công vào nước ta. Nắm được tình hình, Ngô Quyền đã tận dụng thời cơ và địa thế của sông Bạch Đằng để bày binh bố trận, ông cho quân lính đóng cọc gỗ ngầm và lợi dụng thuỷ triều lên xuống để làm bẫy hạ gục quân địch. Khi địch vào đến cửa sông, Ngô Quyền cho toán quân nhỏ ra đánh nhử, quân Nam Hán hăm hở đuổi theo mà không biết đã đi qua bãi cọc ngầm, đến khi nước triều rút xuống, quân ta đánh quật ngược trở lại, quân địch trở tay không kịp, tháo chạy không xong. Thuyền địch bị mắc cạn trên bãi cọc ngầm, quân địch bỏ thuyền chạy xuống sông, quân thì bị giết quân thì chết đuối. Quân ta tấn công rất quyết liệt, con trai vua Nam Hán Hoằng Tháo cũng bị giết, vua Nam Hán hốt hoảng ra lệnh rút quân, quân ta toàn thắng. Có thể nói chiến thắng này giống như một mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh bảo vệ đất nước của dân tộc ta. Em hy vọng sẽ có một ngày được đến thăm trận địa cọc ngầm trên sông Bạch Đằng để thấy được những chứng tích hào hùng cho tinh thần bất khuất, quật cường của quân Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh, mẫu số 2 ChuẩnEm đã từng được nghe rất nhiều những câu chuyện về lịch sử nước nhà, về những người anh hùng hào kiệt. Một trong những câu chuyện đó là cuộc khởi nghĩa của Lý Bí vào mùa xuân năm 542. Lý Bí vốn là người gốc Trung Quốc nhưng sang nước ta lập nghiệp và từ lâu đã có lòng căm ghét bọn đô hộ phương Bắc. Nhà Lương đô hộ nước ta và siết chặt ách đô hộ bằng cách phân biệt đối xử với người Việt, chỉ có tôn thất nhà Lương và những người dòng họ lớn mới được giữ chức vụ quan trọng. Trước những chính sách cai trị hết sức tàn bạo cùng với hàng trăm thứ thuế vô lý, Lý Bí vốn làm quan giữ chức chỉ huy quân đội ở Đức Châu Nghệ An - Hà Tĩnh vì căm ghét đã từ quan về ở ẩn và ngấm ngầm lên kế hoạch cùng các hào kiệt trong vùng để nổi dậy. Khi Lý Bí phất cờ khởi nghĩa ở quê hương Thái Bình mạn Sơn Tây vào mùa xuân năm 542 đã được rất đông đảo hào kiệt khắp nơi hưởng ứng, nhờ đó mà chỉ trong chưa đầy ba tháng quân ta đã giành lại chủ quyền khắp các quận huyện. Trước sự hùng mạnh của nghĩa quân Lý Bí nhà Lương đã phải đưa quân sang đàn áp, nhưng quân ta lại chủ động lật ngược tình thế chủ động kéo quân lên phương bắc đánh bại quân Lương. Đến năm 543 quân Lương lại tiếp tục kéo quân sang đàn áp và quân ta lại một lần nữa cho thấy sức mạnh của mình, đánh một trận ác liệt khiến cho quân nhà Lương mười phần thì chết đến bảy, tám phần. Cuối cùng các tướng địch đã bị giết gần hết, Lý Bí lên ngôi vua lấy hiệu là Lý Nam Đế, thành lập nhà nước Vạn Xuân. Cuộc khởi nghĩa của Lý Bí em cảm nhận được sự đồng lòng, ý chí đấu tranh kiên cường của nhân dân ta, vì căm ghét bọn đô hộ mà quyết tâm đi theo khởi nghĩa, quyết tâm giành lại độc lập, tự chủ. 3. Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh, mẫu số 3Trong chuyến đi tham quan tại đền thờ Hai Bà Trưng tại huyện Mê Linh - Đông Anh - Hà Nội, em đã được nghe kể lại cuộc khởi nghĩa anh hùng của hai chị em Trưng Trắc - Trưng Nhị. Trưng Trắc và Trưng Nhị là hai chị em trong một gia đình dòng dõi Hùng Vương, từ lâu đã ngầm liên kết với các thủ lĩnh trên khắp đất nước để chờ thời cơ nổi dậy giành lại chính quyền. Vào mùa xuân năm 40 cuộc khởi nghĩa nổ ra, với lòng căm thù giặc sâu sắc, tinh thần khởi nghĩa quật cường, dũng cảm, quyết liệt, quân ta nhanh chóng đánh bại kẻ thù, chiếm lại Mê Linh rồi đánh tiếp đến Cổ Loa, Luy Lâu. Quân ta đi đến đâu quân địch sợ hãi đến đó, không có sức mạnh nào có thể đánh bại sự đoàn kết đồng lòng của nghĩa quân, quân ta đánh cho giặc tan tác, dẫm đạp lên nhau mà tháo chạy, Tô Định sợ hãi đến mức phải bỏ thành, cắt tóc, cạo râu, giả làm người khác để lẩn trốn về Trung Quốc. Quân của ta tiếp tục tiến đánh quân Hán ở các quận huyện khác và đều giành được thắng lợi lẫy lừng. Thật tự hào khi dân tộc ta có những vị nữ tướng tài ba, giỏi giang và đầy bản lĩnh như Hai Bà Trưng, các bà đã đánh tan quân thù, làm rạng danh con cháu vua Hùng. 4. Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh, mẫu số 4Xuyên suốt chiều dài lịch sử, tinh thần bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta là một trong số những minh chứng tiêu biểu cho những giá trị vững bền và bất diệt trước vòng xoáy "một đi không trở lại" của thời gian. Điều này đã được in đậm dấu ấn trong những trang sử vẻ vang của dân tộc qua những trận chiến đối đầu với giặc ngoại xâm đầy khốc liệt. Trong suốt chiều dài lịch sử hào hùng của dân tộc ta, chiến thắng của Ngô Quyền trước quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938 đã mở ra một trang sử mới cho dân tộc, đánh dấu sự kết thúc và chấm dứt hơn một nghìn năm chế độ phong kiến phương Bắc đô hộ nước chiến đấu trên sông Bạch Đằng tuy diễn ra vào năm 938 nhưng được nhen nhóm và bắt nguồn từ một sự kiện diễn ra vào năm 931. Lúc bấy giờ, nước ta chưa có quốc hiệu chính thức và được gọi với tên là Tĩnh Hải quân. Trước sự đàn áp của quân Nam Hán - một trong số mười nước lớn mạnh và tôn xưng là "Ngũ đại Thập quốc", người anh hùng Dương Đình Nghệ đã lãnh đạo nhân dân đứng lên chống lại quân Nam Hán. Sau chiến thắng này, Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ và và giành được quyền tự chủ cho Tĩnh Hải quân. Tuy nhiên, 6 năm qua đi, binh biến bất ngờ xảy ra, để thỏa mãn tham vọng về quyền lực, một nha tướng của Dương Đình Nghệ là Kiều Công Tiễn đã làm phản để cướp ngôi Tiết độ sứ. Ngô Quyền vốn là một tướng sĩ dưới trướng Dương Đình Nghệ, bất bình trước hành động phản bội của Kiều Công Tiễn đã tập hợp một số binh lính trung thành và nghĩa khí để trừng trị, tiêu diệt kẻ cướp ngôi. Lúc bấy giờ, Kiều Công Tiễn tuy đã trở thành Tiết độ sứ nhưng lại hết sức lo sợ trước đội quân của Ngô Quyền, vì thế mà y đã cầu cứu sự giúp đỡ của quân Nam Hán để bảo vệ tính mạng cũng như quyền lực của bản thân. Hành động này của hắn đã khiến cho quân Nam Hán một lần nữa đặt bước chân xâm lược lên bờ cõi nước ta. Lưu Nghiễm - vua Nam Hán đã cử con trai thứ 9 là Lưu Hoằng Tháo thống lĩnh và đưa quân tiến vào nước ta. Đó chính là bối cảnh rộng diễn ra cuộc chiến đấu trên sông Như năm 938, cuộc chiến đấu chính thức diễn ra với hai sự kiện chính là Ngô Quyền giết chết kẻ phản bội Kiều Công Tiễn và đánh bại quân Nam Hán. Ngay sau khi tập hợp một đội quân bao gồm những binh lính và tướng sĩ trung thành, Ngô Quyền đã nhanh chóng cô lập và tiệu diệt Kiều Công Tiễn, lúc này quân Nam Hán với danh nghĩa bảo vệ Kiều Công Tiễn vẫn chưa tiến vào biên giới nước âm mưu nhanh chóng chiếm lại Tĩnh Hải quân tên gọi của đất nước ta thời bấy giờ, vua Nam Hán đã chỉ thị Lưu Hoằng Tháo thực hiện chiến lược đánh nhanh thắng nhanh bằng việc đưa các chiến thuyền tiến vào sông Bạch Đằng. Trước tình thế này, Ngô Quyền đã bình tĩnh phân tích điểm mạnh của yếu của địch. Ông nắm rõ việc giết chết Công Tiễn trước đã chặt đứt đi cánh tay nội ứng của địch, khó khăn duy nhất của quân dân ta lúc này chính là những chiến thuyền mạnh mẽ và to lớn của chúng. Vì thế, ông đã bàn bạc với các tướng lĩnh để diệt trừ điểm mạnh này của kẻ địch. Ngô Quyền đã dựa vào thế nước cũng như đặc trưng thủy triều lên xuống của dòng sông Bạch Đằng để đưa ra kế sách chống địch. Những chiếc cọc lớn có bịt sắt nhọn đã được chế tạo và đóng xuống sông dưới mệnh lệnh của Ngô Quyền. Lúc nước lên cao, thủy triều trở thành chiếc màn che hoàn hảo khiến những chiếc cọc được ngụy trang một cách khéo léo. Ngô Quyền đã chỉ huy một đội quân dụ quân địch vào khu vực thượng lưu con sông - nơi mà những chiếc cọc bịt đầu sắt đang ẩn dưới làn thủy triều. Hoằng Tháo vốn hiếu thắng, chưa có kinh nghiệm chiến đấu, lại thấy quân ta sử dụng phương tiện là những chiếc thuyền nhẹ, nên đã vội vàng cho quân đuổi theo. Đợi lúc thủy triều rút hẳn, những chiếc cọc bịt đầu sắt nổi lên chọc thủng những chiến thuyền của quân địch, Ngô Quyền lập tức hạ lệnh cho quân ta phản công, và kết quả đã dành chiến thắng vang dội, Lưu Hoằng Tháo bỏ mạng và hơn một nửa binh sĩ của quân Nam Hán tử trận. Vua Nam Hán là Lưu Cung đang tiếp ứng ở biên giới cũng không kịp xoay sở trước thất bại này và ngậm ngùi gom đám tàn binh về thắng đầy hiển hách của quân dân ta trước đội chiến thuyền và đội quân hùng mạnh của quân Nam Hán đã để lại những bài học lịch sử vô cùng sâu sắc. Trước hết, nó đã thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược và vai trò lịch sử của người anh hùng Ngô Quyền. Nhờ nắm rõ địa thế nước ta cùng tài mưu lược, ông đã đề ra một chiến lược đúng đắn, đánh tan âm mưu xâm lược và đô hộ nước ta của quân Nam Hán. Không những vậy, sau chiến thắng này, Ngô Quyền đã lên ngôi vua vào năm 939, lấy hiệu là Ngô Vương, lập ra nhà Ngô và chọn Cổ Loa làm nơi đóng đô, mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc ta sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc. Trận chiến hiển hách này còn thể hiện rõ ý chí cùng tinh thần bất khuất, kiên cường chống giặc ngoại xâm, bảo vệ giang sơn bờ cõi của quân và dân ta và làm ngời sáng hơn nữa ngọn lửa yêu nước luôn rực cháy trong trái tim của mỗi một con người Việt thắng trên sông Bạch Đằng vào năm 938 không những lưu danh sử sách mà còn được ghi nhận trong rất nhiều tác phẩm văn học. Dưới ngòi bút của tác giả Nguyễn Trãi, trận chiến này trở thành ví dụ điển hình cho việc khẳng định sự thất bại tất yếu của giặc ngoại xâm "Lưu Cung tham công nên thất bại" trích "Bình Ngô đại cáo". Thông qua những chiến công này, chúng ta càng hiểu rõ và tự hào hơn nữa về những trang sử đầy vẻ vang của dân tộc. Văn tự sự là dạng làm văn kể chuyện hay tường thuật lại những sự việc hay câu chuyện cho người nghe và người đọc hiểu được. Bên cạnh bài làm văn Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh, học sinh và giáo viên tham khảo thêm những bài làm văn mẫu như Kể lại một câu chuyện cổ tích mà em biết theo lời một nhân vật trong truyện đó Kể lại một lần em cùng bố, mẹ hoặc anh, chị đi thăm mộ người thân trong ngày lễ, tết, Kể về một anh hùng chống ngoại xâm mà em biết, Kể về một người có ý chí nghị lực mà em biết hoặc được nghe kể, Kể lại một trận thi đấu bóng đá rất nhiều những bài văn mẫu hay khác các bạn cùng theo dõi nhé. Bài viết số 2 lớp 9 đề 3Viết tập làm văn số 2 lớp 9 đề 31. Lập dàn ý kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh2. Bài viết số 2 lớp 9 đề 33. Kể lại trận chiến Bạch Đằng4. Kể lại trận đánh đồn Ngọc Hồi5. Kể lại một trận chiến ác liệt lớp 96. Kể lại bài học lịch sử Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán7. Kể lại trận chiến ác liệt Đại thắng mùa xuân Kỷ Dậu 17898. Kể lại cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh là nội dung bài viết số 2 lớp 9 đề 3 phần viết bài tập làm văn tự sự. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ mẫu lập dàn ý kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh cùng với các bài văn kể lại một trận chiến ác liệt lớp 9 sẽ giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo khi làm bài viết tập làm văn số 2 lớp hứng nhân đạo trong đoạn trích Chị em Thúy KiềuMời các bạn cùng tham gia group Bạn Đã Học Bài Chưa? để cập nhật các kiến thức mới bổ ích về học tập cùng với Hoatieu Lập dàn ý kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnha. Mở bàiĐất nước ta đã có bao nhiêu trận chiến đấu các liệt với những chiến công hiển chiến đấu… đã để lại cho em những cảm xúc khó Thân bài+ Kể khái quát về trận chiến đấuDiễn ra vào năm nào? Ở đâu? Ở thời kì nào? Chống giặc ngoại xâm nào? Mục đích của trận chiến đấu?Em đã được biết về trận chiến ấy từ ông bà kể lại hay sau khi học môn Lịch sử hoặc sau khi xem phim?+ Kể lại diễn biến chính của trận chiến đấu qua các giai đoạn- Chuẩn bị, phòng công tư thế chủ động, tinh thần dũng cảm, quyết chiến quyết thắng của quân ta; sự chống trả của địch…Lưu ý Kết hợp miêu tả tư thế, hành động của ta, của địch; tả quang cảnh của trận chiến… Khi kể, chú ý làm nổi bật vai trò của vị chỉ huy tài giỏi, anh dũng và một vài chi tiết thể hiện tinh thần quả cảm của quân Kể lại kết quả của trận chiến đấuQuân ta chiến thắng kết hợp với miêu tả không khí chiến thắng, nét mặt, nụ cười của những người lính và những hi sinh mất mát… Quân địch thất bại kết hợp với miêu tả không gian hoang tàn sau trận chiến, hình ảnh những tên lính còn sống sót…+ Ý nghĩa của trận chiến đấu trong lịch sửc. Kết bàiCảm xúc, suy nghĩ của em về trận chiến đấu ác liệt ấy Tự hào về lòng yêu nước của các thế hệ cha ông, về những trang sử vàng của dân tộc nghĩ, liên hệ tới bổn phận của cá nhân và thế hệ Bài viết số 2 lớp 9 đề 3Em đã từng được nghe rất nhiều những câu chuyện về lịch sử nước nhà, về những người anh hùng hào kiệt. Một trong những câu chuyện đó là cuộc khởi nghĩa của Lý Bí vào mùa xuân năm Bí vốn là người gốc Trung Quốc nhưng sang nước ta lập nghiệp và từ lâu đã có lòng căm ghét bọn đô hộ phương Bắc. Nhà Lương đô hộ nước ta và siết chặt ách đô hộ bằng cách phân biệt đối xử với người Việt, chỉ có tôn thất nhà Lương và những người dòng họ lớn mới được giữ chức vụ quan trọng. Trước những chính sách cai trị hết sức tàn bạo cùng với hàng trăm thứ thuế vô lý, Lý Bí vốn làm quan giữ chức chỉ huy quân đội ở Đức Châu Nghệ An - Hà Tĩnh vì căm ghét đã từ quan về ở ẩn và ngấm ngầm lên kế hoạch cùng các hào kiệt trong vùng để nổi dậy. Khi Lý Bí phất cờ khởi nghĩa ở quê hương Thái Bình mạn Sơn Tây vào mùa xuân năm 542 đã được rất đông đảo hào kiệt khắp nơi hưởng ứng, nhờ đó mà chỉ trong chưa đầy ba tháng quân ta đã giành lại chủ quyền khắp các quận huyện. Trước sự hùng mạnh của nghĩa quân Lý Bí nhà Lương đã phải đưa quân sang đàn áp, nhưng quân ta lại chủ động lật ngược tình thế chủ động kéo quân lên phương bắc đánh bại quân Lương. Đến năm 543 quân Lương lại tiếp tục kéo quân sang đàn áp và quân ta lại một lần nữa cho thấy sức mạnh của mình, đánh một trận ác liệt khiến cho quân nhà Lương mười phần thì chết đến bảy, tám phần. Cuối cùng các tướng địch đã bị giết gần hết, Lý Bí lên ngôi vua lấy hiệu là Lý Nam Đế, thành lập nhà nước Vạn khởi nghĩa của Lý Bí em cảm nhận được sự đồng lòng, ý chí đấu tranh kiên cường của nhân dân ta, vì căm ghét bọn đô hộ mà quyết tâm đi theo khởi nghĩa, quyết tâm giành lại độc lập, tự Kể lại trận chiến Bạch ĐằngNăm 931, Dương Đình Nghệ đánh đuổi quân Nam Hán, giành lại độc lập cho nhân dân vùng Tĩnh Hải quân nhưng sau đó chưa lâu thì bị tướng Kiều Công Tiễn giết hại, âm mưu đoạt chức Tiết độ sứ. Nhận được tin dữ cha vợ bị tên giặc giết hại, Ngô Quyền tập hợp quân lính đem quân ra Bắc đánh tên nghịch tặc vì tội phản chủ. Nghe tin Ngô Quyền sắp đem quân ra đánh, Kiều Công Tiễn sợ hãi, chạy sang cầu cứu quân Nam Hán. Không bỏ lỡ cơ hội này, vua Nam Hán nhanh chóng tập binh lực lượng, giao cho con trai thứ chin là Hoằng Thao đem quân sang xâm lược một lần được tin Hoằng Thao đem quân sang đánh, sau khi tập hợp các đạo quân chính nghĩa, Ngô Quyền mang quân tiến ra thành Đại La giết chết Kiều Công Tiễn – kẻ đã “cõng rắn cắn gà nhà”, rước giặc xâm lược bờ cõi nước ta. Ông nói rằng- Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa biển thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra tướng lĩnh nghe theo chiến lược của Ngô Quyền, cho là phải lắm. Vừa lợi dụng được lòng hiếu chiến và non nớt của tướng địch, lại vừa có thể dựa vào sức mạnh thiên nhiên, thật không gì có thể tốt hơn được nữa!Ngô Quyền nhanh chóng cho lính chặt những cây gỗ lớn nhất, chờ đến khi đêm xuống mới bắt đầu vát nhọn đầu, bọc sắt, chờ ngày ra trận. Bởi vậy mà mật thám quân thù không hề hay biết, chúng cứ ung dung tiến tới bờ cõi nước ta với thái độ ngông nghênh ngạo một ngày cuối đông năm 938, tại cửa sông Bạch Đằng, chiến thuyền của quân địch đã tới sát cửa sông. Hoằng Thao vừa đi vừa thét lớn- Giao Chỉ bé nhỏ này, chỉ một tay ta là ôm được tất!Ngô Quyền cho lính bơi thuyền nhẹ ra khiêu khích. Giặc hối hả bắn cung, tốt gươm sáng loáng, ta vờ thua lui về phía thượng lưu. Thấy quân sĩ ta chỉ có thuyền nhỏ, quân lại ít, giặc tưởng có thể dễ dàng ăn tươi nuốt sống nên hùng hổ tiến vào. Ngô Quyền lại cho quân lùi sâu hơn nữa. Hoằng Thao hung hăng cho quân lính tiến theo, âm mưu giết sạch hết binh sĩ của ta nhưng không thể ngờ rằng hắn đã sa vào bẫy quân ta giăng sẵn! Chiều đã ngả, triều cường bắt đầu rút xuống rất nhanh. Thuyền giặc lớn nên bị mắc cạn, rơi vào thế “Tiến thoái lưỡng nan”, tiến không được mà lui cũng chẳng xong. Lúc này, Ngô Quyền mới hạ lệnh binh sĩ từ hai bên tả hữu sông Bạch Đằng sông ra đánh. Hoằng Thao hét lên- Binh sĩ đâu, tiến lên giành lấy đất Giao Chỉ cho ta!Nhưng thuyền giặc sao có thể tiến thêm được nữa! Quân ta bơi thuyền nhỏ, xông ra tấn công kẻ thù dữ dội. Thuyền lớn của quân địch bị cọc đâm thủng hết, từng tên giặc lần lượt giơ kiếm đầu hàng. Quân Nam Hán thua chạy, còn Hoằng Thao đã tử trận cùng với nửa đám quân sĩ từ lúc nào. Thuyền giặc bốc cháy ngùn ngụt trên dòng sông Bạch Đằng, tiếng reo hò vang dội của quân sĩ ta vang lên. Đó là cái giá phải trả cho những kẻ đi cướp nước!Vua Nam Hán đang cầm quân tiếp ứng ở biên giới, nghe tin con là Hoằng Thao đã tử trận bèn khóc thương rồi cho quân lui về. Từ ấy, nước Nam Hán không còn ôm mộng xâm lược nước ta nữa. Còn về phần Ngô Quyền, sau chiến thắng rực rỡ trên sông Bạch Đằng năm 938, trận thủy chiến oanh liệt của dân tộc ta, năm 939, Ngô Quyền xưng vương, lập ra nhà Ngô, đóng quân ở thành Cổ đời còn nhắc tên vua Ngô Quyền với trận thủy chiến trên sông ấy mãi. Người ta nói rằng đó vừa là một vị tướng tài ba, lại là người am hiểu địa hình của đất nước, xứng đáng trở thành người đứng đầu cho một chính quyền còn non trẻ bấy Kể lại trận đánh đồn Ngọc HồiTôi là người lính trong nghĩa quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của vua Quang Trung. Được tham gia trận đánh nên tôi thấy rất vẻ vang khi một đất nước nhỏ bé có thể đánh thắng khi quân địch vô cùng mạnh. Đặc biệt là trận đấu Ngọc Hồi- Hà Hồi đại phá quân Thanh. Sau đây tôi xin kể cho các bạn nghe về diễn biến trận đánh ấy mùa xuân Kỷ Dậu năm bạn cũng biết hồi đó vua Lê Chiêu Thống sang cầu cứu nhà Thanh, nhân cơ hội đó Tôn Sĩ Nghị kéo hai mươi vạn quân Thanh đi thẳng vào Thăng Long xâm lược nước ta mà không tốn một mũi tên hạt đạn nào. Được tin đó Bắc Bình Vương- Nguyễn Huệ đã lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung vào ngày 25 tháng Chạp năm 1788. Ngay hôm đó nhà vua đã mở một đội quân ra Bắc và tôi có mặt trong đấy. Có thể nói rằng đó là một cuộc lùi binh thần tốc. Chúng tôi đi suốt ngày đêm không nghỉ bằng chân bộ. Thật là không gì bằng sức con 29 Tết đánh đồn sông Gián Khẩu và đến nửa đêm 30 Tết kế hoạch đánh đồn Hà Hồi. Là đồn nhỏ vua Quang Trung cho chúng tôi dùng mưu kế và trận đánh diễn ra nhanh chóng quân Thanh phải đầu hàng. Quả thực vua Quang Trung đúng là một người tài khi đánh đồn Ngọc Hồi thì quả là khó khăn bởi đây là đồn lớn ở địa thế bằng phẳng, bảo vệ kinh thành Thăng Long, xây dựng kiên cố, đội quân tinh nhuệ đó là điều bất lợi về phía chúng ta. Vì thế mà ta đã phải chuẩn bị ba tấm ghép thành một bức lấy rơm dấp nước phủ kín mười người khiêng một bức, lung dắt dao ngắn dàn theo chữ “nhất” phía sau là đội quân binh tinh nhuệ chỉnh tề được vua Quang Trung trực tiếp chỉ đánh diễn ra mờ sáng mùng 5 Tết khi mà màn sương mù vẫn chưa tan, mưa phùn quân Tây Sơn lặng lẽ bao vây đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh bắn mũi tên có lửa nhưng bị tấm ván cản lại làm vô hiệu hóa. Quân Thanh trong đồn dùng súng bắn ra nhưng không chúng một ai. Nhân lúc có gió Bắc hắn phun khói lửa, khói tỏa mù trời phòng làm quân ta hoảng sợ. Nhưng bỗng trời chuyển gió Nam thành ra quân Thanh tự hại mình. Thật là gậy ông đập lưng ông. Trong thành quân địch rối loạn. Thừa thế quân ta xông thẳng vào trong thành văng ván xuống đất. Khi giao gươm của hai bên chạm vào nhau thì ai nấy đều cầm giao ngắn chém bừa. Đội quân phía sau thấy thế xông lên. Khung cảnh lúc thế trận đấu thật là hỗn loạn, tiếng gươm giáo, tiếng la hét reo hò của nghĩa quân Tây Sơn họ tung hoành trên chiến trường dũng cảm. Vua Quang Trung uy nghi ngồi trên lung voi điều khiển ba quân tiến thẳng vào thành. Thật là một hình ảnh oai phong lẫm phút chốc quân ta đã chiếm đồn Ngọc Hồi. Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử. Thân nằm đầy đồng, máu chảy thành suối quân địch còn lại bỏ chạy toán loạn. Trưa mùng 5 Tết vua Quang Trung cùng đội quân tiến thẳng vào Thăng Long với tiếng gieo hò của nhân dân, sắc đào của hoa xuân, tiếng pháo nổ của ngày tết. Tôi rất khâm phục khi vua Quang Trung là người trí tuệ, có tầm nhìn chiến lược. Là một người chiến sĩ tôi cũng rất tự hào vì mình cũng góp một công sức để đem thắng lợi về cho dân đây khi đất nước đã được thái bình tôi không hề quên được trận đánh vẻ vang đấy. Nghĩ lại thời đấy thì tôi vẫn rất buồn khi có nhiều người đã hi sinh, chúng tôi tự hào về cuộc chiến đấu của mình. Tôi mong rằng sau này đất nước sẽ không còn chiến tranh, mọi người có cuộc sống hạnh phúc. Trận chiến Hà Hồi - Đống Đa đã đi vào trang sử vàng của dân tộc, niềm tự hào của con cháu muôn Kể lại một trận chiến ác liệt lớp 9Lịch sử quân sự Hoàng Mai còn ghi rõ những trận đánh trên mảnh đất kiên cường này trong những năm chiến tranh chống Mỹ. Trong những dòng lịch sử đó, có tên Đỗ Lương Bằng, có cả thế trận chiến tranh nhân tá Trần Quốc Mỹ kể lại cho chúng tôi nghe về một trong những trận đánh tại trận địa pháo năm xưa. Giọng ông chậm rãi, đôi mắt rực sáng khi hướng về những chiến công năm ấy.…13 giờ 15 phút, ngày 3/2/1966, một tốp máy bay trinh sát A3J và F4H từ phía biển bay vào Khe nước Lạnh trinh sát khu vực Hoàng Mai. 2 đơn vị cao xạ pháo C214, D14, F34, cùng với lực lượng chiến đấu kịp thời nổ súng bắn trúng chiếc máy bay A3J. Trúng đạn, chúng cố nhoài theo hướng Đông Nam để chuồn ra biển. Nhưng đến địa phận xã Quỳnh Liên, chiếc máy bay bốc cháy nghi ngút và rơi làm 3 tên phi công nhảy dù xuống cách bờ biển khoảng Đài quan sát ở Hòn Ói lập tức báo tin máy bay rơi ở tọa độ 200 07’, giặc lái rơi ở tọa độ 210 77’ 2". Cả vùng bãi Ngang không ai bảo ai đều hô to “Máy bay địch cháy, bắt sống phi công bà con ơi”.Các xã Quỳnh Liên, Quỳnh Bảng, Quỳnh Lương… đã phối hợp với lực lượng chủ lực, huy động mọi phương tiện vũ khí ra khơi bắt giặc chiến sĩ cảm tử trước khi ra đi đã gửi lại gói quần áo cho đồng chí mình và trao đổi nhanh “Nếu tôi có hy sinh thì đưa lại cho bố, mẹ tôi và nói rằng tôi hy sinh vì đã hoàn thành nhiệm vụ…”, đội hình chiến đấu được triển khai theo hình chữ V, mỗi thuyền cách nhau 100m nhằm thẳng mục tiêu lướt tới. Trên bờ, lực lượng triển khai đội hình sẵn sàng phối hợp chiến đấu. Các thuyền, máng của các xã xung quanh được xuất lúc chúng ta đang tiếp cận mục tiêu để bắt gọn 2 tên giặc lái, địch đã tổ chức đội hình ứng cứu, huy động đủ các máy bay chiến đấu 2 máy bay A6A, 4 máy bay C123, 1 trực thăng và 5 tàu chiến trực cách bờ biển 20km, sẵn sàng ứng cứu, giải thoát cho phi công lúc thuyền áp sát mục tiêu, chúng cho bọn AD6 ồ ạt bao vây các thuyền. Các chiến sỹ cảm tử vẫn không hề nao núng, vẫn bám sát mục tiêu bao vây, khép chặt giặc lái. Hai thuyền chủ lực vượt trước, quay trở lại tạo thành thế gọng kìm, thuyền thứ 3 lao tới áp đảo nổ súng. 17 giờ 17 phút, ngày 3/2/1966, 2 tên giặc lái Mỹ Hen Béc Rô Mác Rôn, Đại uý và Rôbét Hanson Trung uý bị lại chiến công của những người lính cao xạ và toàn thể quân dân đóng quân trên địa bàn Quỳnh Lưu ngày 3/2/1966, Đỗ Lương Bằng đã viết vào nhật kí “Ngày kỷ niệm thành lập Đảng tròn 36 tuổi, tối qua đơn vị phát động thi đua lập thành tích chào mừng ngày kỷ niệm thành lập Đảng, nhất là trong chiến đấu. Không khí thi đua sôi nổi hào hứng trong toàn đơn vị. Vừa hết giờ nghỉ trưa. Tiếng động cơ xuất hiện hướng 14. Lúc này là 13 giờ 5 phút, một máy bay phản lực A3J bay vào bắt mục tiêu ở cự ly 5000m và 4000m, đơn vị nổ súng. Đầu máy bay Mỹ bị bốc cháy vỡ thành 3 mảnh, cháy đỏ cả góc trời, rơi tại đất liền giữa tiếng hò reo ầm ĩ của nhân dân địa phương… bọn mình thật phấn khởi quá. Hò reo ầm ĩ cả trận địa. Chả là vì sau hơn 2 tháng, hôm nay mới nổ súng, lại bắn cháy ngay từ điểm xạ đầu”.6. Kể lại bài học lịch sử Ngô Quyền đánh thắng quân Nam HánĐêm đã rất khuya…Ngoài trời, những vệt sáng mờ mờ đầu tiên của một ngày mới đã xuất hiện. Trong những xóm làng gần đó đã cất lên thưa thớt vài ba tiếng gà gáy vang yên lặng bao phủ toàn doanh trại. Các binh sĩ đều đã đi ngủ cả, chỉ nghe tiếng thở đều nhè nhẹ, tiếng cuốc kêu não nuột vang trong đêm vắng. Nhưng trong bóng tối và cái tĩnh mịch ấy, ở một góc trại, vẫn còn một ánh đèn chiếc đèn dầu gần cạn chỉ còn le lói, vị chủ tướng đang ngồi trầm ngâm, mắt đăm đăm nhìn về phía trước. Trên bàn, cuốn binh thư đọc dở nằm im như chờ đợi. Ánh sáng yếu ớt hắt lên khuôn mặt suy tư, đôi mày nhíu lại, chòm râu đen và đôi mắt sáng rực như hai vì sao. Đó chính là Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo. Làm cách nào? Làm cách nào? Trong đầu vị chủ tướng vẫn trăn trở câu hỏi. Chỉ còn một ngày nữa thôi, vào rạng sáng, đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi sẽ xuôi dòng Bạch Đằng để rút về nước. Đây là thời cơ thuận lợi để quân ta phản công, để giải phóng đất nước. Thời gian đã gấp rút lắm rồi. Vậy mà ông chưa nghĩ ra cách đánh nào thích hợp, đảm bảo chiến thắng cho quân ta. Đánh địch đã khó nhưng chiến thắng chúng còn khó khăn hơn rất nhiều lần !Trần Hưng Đạo chợt nhớ bài học lịch sử xa xưa - năm 938, Ngô Quyền đã đánh thắng quân Nam Hán… Đúng rồi, chỉ có cách đánh của Ngô Quyền mới thật là thượng sách. Trong ông luồng nhiệt huyết lại bốc cháy bừng bừng, ông thầm cảm ơn vị dũng tướng họ Ngô đã cho ông một ý tưởng. Vừa lúc đó, gà gáy báo trời đã sáng Hưng Đạo ban lệnh toàn quân vào rừng đẵn gỗ làm cọc. Dân chúng cũng hồ hởi đi theo giúp. Họ đẵn những cây gỗ chắc khoẻ như lim hay táu. Cây đổ ầm ầm. Khắp nơi chỉ nghe tiếng rìu, tiếng cưa ồn ào, náo động. Người ta dùng dao, dùng rìu chuốt nhọn đầu những thanh gỗ thành những cọc nhọn cao quá đầu người, có cái cao đến hai trượng sáu, to đến nỗi một vòng ôm mới đủ. Đầu nhọn được lấy sắt bọc lại, lúc này mỗi chiếc cọc trở thành một thứ vũ khí vô cùng lợi hại cho những gì sẽ va vào cảnh làm việc như vậy, Trần Hưng Đạo rất hài lòng. Ông sung sướng ngắm nhìn những chiếc cọc nhọn mà tin tưởng vào chiến thắng sắp tới. Sau khi cọc đã đủ, Trần Hưng Đạo cho đóng cọc xuống khúc sông gần ngã ba sông Chanh. Đây quả là một địa thế thuận lợi do thuỷ triều lên xuống nhanh và đây, những người lặn giỏi như Yết Kiêu lại có dịp trổ tài. Ở trên, những thanh niên khoẻ mạnh ngồi trên thuyền, đưa những chiếc cọc nặng xuống dưới, cắm sâu vào lòng sông. Còn dưới mặt nước, những người thợ lặn đã chờ sẵn. Họ đỡ những chiếc cọc, thận trọng chỉnh lại hướng và độ vững chắc trước khi ngoi lên. Người đâm, kẻ đỡ thật ồn ào náo bờ, Trần Hưng Đạo ngắm nhìn trận địa cọc đang dần hình thành. Lúc này thuỷ triều đang rút, ta có thể nhìn thấy những cọc nhọn hoắt nhô lên trông thật nguy hiểm. Cọc này sát với cọc kia như bàn chông, đứng vững như bàn thạch, không hề suy chuyển khi bị những cơn sóng to ập vào. Ông mỉm cười sung sướng rồi đích thân chuẩn bị ở hai bên bờ. Những toán quân khoẻ mạnh, nhanh nhẹn được chọn ra. Những bùi nhùi, đá lửa, rơm rạ, dầu cùng những thứ dễ cháy đã được bà con dấu sẵn vào luồng lạch hoặc hai bên bờ những nơi lau lách um tùm rậm rạp gần đó để phóng hoả khi cần làm việc nọ, kẻ giúp việc kia, thật khẩn trương nhưng vẫn chu đáo, cẩn trọng. Họ thi nhau đóng những chiếc thuyền nhỏ, nhẹ, bằng gỗ chuẩn bị cho cuộc tiến lúc ấy, trên bờ những quân sĩ còn lại cũng không chịu ngồi yên. Họ rèn đúc khí giới, mài dao thêm sắc, mài gươm thêm nhọn, chuẩn bị cung tên. Nhóm thì đấu vật, nhóm thì đấu gươm. Tinh thần hăng hái không kể đầu cho thoát đến chiều tối thì mọi việc cũng đã xong. Những quân sĩ vẫn chưa ngủ. Họ ngồi lại nghe một người đọc lại bài hịch của Hưng Đạo Vương “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng…”. Lời hịch vang lên khiến lòng người rạo rực, bừng bừng trong máu, trong tim. Doanh trại lại ồn ào tiếng múa gươm, múa kiếm sôi động nhộn nhịp. Tưởng như đang diễn ra một cuộc chiến đã điểm canh hai, tờ mờ sáng, bỗng gần cửa sông Bạch Đằng xuất hiện một đoàn thuyền chiến dài dằng dặc làm chật cả khúc sông. Những cánh buồm làm thẫm màu nước. Chiêng trống vọng ra ầm ầm như sấm, như sét… Quanh hai bên bờ không một bóng người. Lúc này thuỷ triều đang dâng lên cao, chỉ thấy mênh mông màu nước trắng xoá, những bụi lau lách ven bờ. Thỉnh thoảng vọng lại vài tiếng chim thưa thuyền, Ô Mã Nhi đang nằm ung dung trên đệm gấm, mừng rỡ nói với các tướng “Quân Trần thấy ta là sợ mất mật, còn sức đâu mà đánh!”. Y lại càng yên tâm hơn vì sắp ra đến biển rồi, quân ở đâu ra cũng khó cản đường một đoàn thuyền đông đúc! Thuyền chậm lại dậy lên tiếng trống, tiếng chiêng đầy náo nức, vọng hết cả mặt sông. Từng đàn chim bay loạn xạ từ những bụi cây. Ô Mã Nhi giật mình chạy ra ngoài nhìn. Tiếng trống vẫn cứ rộn rã. Quân Nguyên đang ngơ ngác, bỗng thấy trước mặt xuất hiện một đoàn, thuyền nhẹ. Trên con thuyền dẫn đầu là tướng quân Nguyễn Khoái, tay cầm một thanh đao, thét lớn “Ồ Mã Nhi, ta chờ mày ở đây lâu rồi, mày chạy đâu cho thoát”. Nguyễn Khoái đứng hiên ngang, thân thể cao lớn, vững như tượng đồng, cùng quân sĩ tấp vào thuyền giặc. Tiếng trống vang vang. Những mũi tên bay từ đâu tới tấp vào quân giặc. Ô Mã Nhi giơ khiên lên đỡ, cùng người tướng là Phàn Tiếp xông ra Nhưng vừa đánh nhau một lúc, bỗng Nguyễn Khoái thét lớn với quân sĩ “Anh em, sức giặc còn mạnh, người còn đông, chưa thể hạ được, chúng ta rút lui!”. Quân sĩ dạ ran. Rồi đoàn thuyền nhỏ chèo nhanh trở Kể lại trận chiến ác liệt Đại thắng mùa xuân Kỷ Dậu 1789Mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789, quân của Nguyễn Huệ nước An Nam vượt sông Gián Thủy đánh bại quân phòng thủ của Lê Duy Kỳ Lê Chiêu Thống, lại bắt toán quân Thanh tuần thám giết sạch. Ngày mồng hai, Tôn Sĩ Nghị được tin hoảng hốt ngự địch, ra lệnh Tổng binh Trương Triều Long mang ba ngàn quân tăng cường cho các đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi để chống cự, lại ra lệnh cho ề đốc Hứa Thế Hanh mang một ngàn năm trăm tên, tự đốc suất một ngàn hai trăm tên để tiếp ứng. Quân Nguyễn Huệ tiến tới đông như ong, vây đồn bốn phía, đánh nhau một ngày một đêm, quân Thanh bị đánh tan bèn bỏ canh năm ngày mồng 5, Nguyễn Huệ mang đại binh tiến đánh, thân tự đốc chiến, dùng một trăm thớt voi khỏe làm tiên phong. Rạng sáng quân Thanh cho kỵ binh nghênh đón địch, ngựa bị voi quần kinh hãi bỏ chạy, quân rút lui vào trại cố thủ. Phía ngoài trại, lũy đầy chông sắt, bên trong bắn súng ra cự địch. Vào giờ Ngọ quân Nguyễn bắn hỏa châu, hỏa tiễn tới tấp; lại dùng rạ bó to lăn mà tiến đều, khinh binh theo sau, trước ngã sau tiến lên một lòng quyết chiến, tại các trại quân Thanh đồng thời tan vỡ, quân Nguyễn thừa thắng chém giết, quân Thanh tử thương quá đốc Hứa Thế Hanh thấy thế lực nhiều ít rõ ràng, bảo gia nhân đem ấn triện ề đốc mang đi, rồi ra sức đánh, bị chết tại trận. Lúc này quân địch càng bị giết càng nhiều, chia cắt quân Thanh từng nhóm rồi vây kín. Thống soái Tôn Sĩ Nghị mất liên lạc với Hứa Thế Hanh và các đại viên ề, Trấn; bèn ra lệnh Phó tướng Khánh Thành, ức Khắc Tinh Ngạch mang ba trăm quân đoạt vây chạy về phía bắc. Khi tàn quân của Tôn Sĩ Nghị chạy đến bờ sông, thì số quân Thanh ba ngàn tên trú đóng tại bờ phía nam đã được Tổng binh Thượng Duy Thanh mang đi tiếp ứng cho Hứa Thế Hanh, bèn ra lệnh cho Tổng binh Lý Hóa Long vượt qua cầu nổi chiếm cứ bờ phía bắc, để tiện việc yểm hộ qua sông. Không ngờ Lý Hóa Long đi đến giữa cầu, trượt chân rơi xuống nước chết, số quân mang đi kinh hãi không biết làm gì. Tôn Sĩ Nghị ra lệnh Khánh Thành yểm hộ mặt sau bằng cách bắn súng điểu thương vào quân Nguyễn Văn Huệ đang truy kích, riêng mình tự mang quân theo cầu nổi lui về bờ phía bắc; rồi lập tức cho chặt đứt cầu nổi, cùng với bọn Khánh Thành rút lui về sông Thị Thanh tại phía nam sông thấy cầu đã bị đứt chìm, không có đường về, bèn đánh trở lại thành nhà Lê. Các Tổng binh Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long, Phó tướng Na ôn Hành, Tham tướng Dương Hưng Long, Vương Tuyên, Anh Lâm đều tử trận. Tri châu iền Châu Sầm Nghi ống không được viện binh đành tự tử, số thân binh tự tử cũng đến hàng trăm. Quốc vương An Nam Lê Duy Kỳ vào lúc binh thua tới dinh Tôn Sĩ Nghị họp bàn, thấy Tôn Sĩ Nghị đã bỏ chạy, bèn hoảng hốt vượt sông chạy lên phương Bắc, đến đây nhà Lê diệt Huệ xua quân tiến vào thành, chiến bào mặc trên người nhuốm đen, do bởi thuốc súng. ề đốc Ô ai Kinh mang đạo quân Thanh tại Vân Nam xuất phát từ Mã Bạch quan vào ngày 20 tháng 11 năm ngoái, đến Tuyên Quang vào ngày 21 tháng 12; khi đến sông Phú Lương thấy cầu nổi bằng tre đã bị chìm đứt, nhìn sang bên kia bờ thấy lửa rực bốn phía, bèn triệt hồi Tuyên Quang, rồi lập tức lui vào trong chiến vẫn còn tiếp tục, nhưng rõ ràng rằng phần thắng sẽ thuộc về những lý tưởng chiến đấu vì chính nghĩa. Tinh thần hy sinh và tài năng của dân tộc ta một lần nữa được khẳng định với bạn bè năm châu khi một lần nữa nhắc lại chiến công oai Kể lại cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nướcMà lòng phơi phới dậy tương lai”Những câu thơ mang hào khí, tinh thần quyết chiến của những con người trẻ tuổi trong cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liệt. Họ có thể đánh đổi cả thanh xuân, tuổi trẻ, cuộc đời mình, làm những việc tưởng chừng như không thể chỉ để hoàn thành sứ mệnh của cuộc đời mình giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong dịp 30/4 vừa qua, tôi đã may mắn xem được bộ phim tài liệu về cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta thời kì chống hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, sự tương quan lực lượng trên chiến trường miền Nam đã có sự thay đổi cho quân và dân ta. Đồng thời, lúc này ở Mĩ đang diễn ra cuộc bầu cử tổng thống Mĩ 1968 với những mâu thuẫn nội bộ đang xảy ra, ta chủ trương mở một cuộc tiến công và nổi dậy trên quy mô toàn miền Nam, chủ yếu tập trung vào các đô thị nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân Mĩ, đánh sập chính quyền ngụy và buộc Mĩ phải đàm phán và rút quân về ta đã tập kích chiến lược vào hầu hết các đô thị trong đêm ngày 30 rạng sáng ngày 31 tháng 1 năm 1968 trong giao thừa Tết Mậu Thân, mở đầu cuộc tiến công và nổi dậy. Qua ba đợt từ đêm 30 tháng 1 đến ngày 25 tháng 2; tháng 5 và tháng 6; tháng 8 và tháng 9 năm 1968 quân và dân ta ở miền Nam đã đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 37/44 tỉnh, 4/6 đô thị lớn, 6/242 quận lị và ở hầu khắp các ấp chiến lược, các vùng nông thôn. Tại Sài Gòn, quân giải phóng đã tấn công vào các vị trí đầu não của địch, phá hủy một khối lượng lớn vật chất và phương tiện chiến tranh của chúng. Quả thực, chính kẻ địch cũng không ngờ được cuộc tiến công và nổi dậy của quân và dân ta trong khi thời khắc giao thừa vừa mới điểm. Có lẽ chính vì sự chủ quan ấy mà quân và dân ta mới nhanh chóng tiến hành được cuộc tiến công thần tốc mưa bom bão đạn và khói súng mù trời, những người con anh dũng của mảnh đất hình chữ S lao ra mặt trận. Súng nổ bên tai, thần chết theo sát từng bước chân nhưng các anh, các chị vẫn vững vàng, kiên quyết không hề run sợ. Bao nhiêu năm nằm gai nếm mật, cực khổ trăm bề mà gan không núng, chí không mòn, tất cả chỉ chờ đợi thời khắc phản công, tấn công bất ngờ khiến địch trở tay không kịp mà cục của mọi cuộc chiến tranh phi nghĩa là kẻ đi xâm lược thất bại thảm hại còn nhân dân yêu chuộng hòa bình và đánh đổi tất cả trong cuộc chiến tranh vệ quốc sẽ giành được chiến thắng vẻ vang. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã làm lung lay ý chí xâm lược của quân Mĩ, buộc chúng phải tuyên bố phi Mĩ hóa chiến tranh xâm lược, đồng thời cũng chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc. Quan trọng hơn nữa, Mĩ đã phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán ở Paris để bàn về việc chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Trận chiến ác liệt, dữ dội và cam go này cũng đã mở ra một bước ngoặt cho cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước ở Việt kiến thời khắc lịch sử hào hùng của dân tộc và sự anh dũng, oai hùng của thế hệ thanh niên, cha ông trong quá khứ, tôi cảm thấy mình thật nhỏ bé biết bao. Họ đã hi sinh tất cả những gì mình có, chỉ để bảo vệ những gì họ yêu. Và trận chiến khốc liệt thời kì chống Mĩ, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vào Tết Mậu Thân 1968 ấy chính là lời tuyên bố đanh thép của nhân dân Việt Nam trước những kẻ thù đang lăm le xâm lược nước ta. Giống như bài thơ thần mà Lý Thường Kiệt đã đọc bên sông Như Nguyệt năm nào“Nam quốc sơn hà Nam đế cưTiệt nhiên định phận tại thiên thưNhư hà nghịch lỗ, lai xâm phạmNhư đẳng hành khan thủ bại hư”Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Học tập - Lớp 9 của Hướng dẫn làm bài văn mẫu Bài viết số 2 lớp 9 đề 3 kể lại một trận chiến đấu ác liệt đã học, được kể hay đã xem hay nhất. Với bài văn này, các em không chỉ cần kể lại đúng lịch sử mà còn cần lồng ghép vào miêu tả và tự sự. Trong chương trình Ngữ Văn lớp 9 các em sẽ được làm quen với dạng văn kể chuyện. Đây là một đề văn thú vị kể chuyện lịch sử. Đề văn này đòi hỏi các em phải có những hiểu biết về lịch sử, năm được các câu chuyện lịch sử để có thể kể lại một cách chính xác. Khi kể, các em cần nếu lên được diễn biến chính của cuộc chiến đấu. Bên cạnh đó cũng cần kết hợp miêu tả và biểu cảm khi kể và thể hiện được sự tự hào, lòng tự tôn dân tộc. Dưới đây sẽ là bài văn mẫu Kể lại một trận chiến đấu ác liệt đã học, được kể hay đã xem lớp 9 hay nhất để các em tham khảo. Kể lại một trận chiến đấu ác liệt đã học, được kể hay đã xem – Bài làm 1 Ngày ấy, đất nước ta vẫn còn trong cảnh lầm than và thường xuyên bị giặc phương Bắc tấn công, đô hộ. Vào năm 931, Dương Đình Nghệ đã đánh đuổi quân Nam Hán, 1 trong 10 nước thời Ngũ đại Thập quốc nằm liền kề với Tĩnh Hải quân. Sau trận đánh này Dương Đình Nghệ đã giành lại quyền tự chủ cho người Việt ở Tĩnh Hải quân, tự xưng là Tiết độ sứ. Tuy nhiên, nền tự chủ chưa được bao lâu thì đến năm 937, nha tướng Kiều Công Tiễn đã giết hại Đình Nghệ để cướp ngôi Tiết độ sứ. Một lần nữa, nước Nam ta rơi vào cảnh lầm than. Trước mắt, bầu trời trở nên u ám. Hơn bao giờ hết, lúc này điều mà chúng ta cần đó chính là một thủ lĩnh tài giỏi có thể đứng lên chống lại kẻ thù. Cầu được ước thấy, Dương Đình Nghệ có một người con rể tên là Ngô Quyền, là một vị tướng tài giỏi dưới thời Dương Đình Nghệ. Sau khi Dương Đình Nghệ bị sát hại, Ngô Quyền đã đứng lên tập hợp lực lượng ra đánh Công Tiễn để trị tội phải chủ. Bị tấn công, Kiều Công Tiễn vô cùng sợ hãi nên đã chạy sang cầu cứu Nam Hán. Là vua của một đất nước vốn là kẻ thù của chúng ta, Lưu Nghiễm đã nhân cơ hội này quyết định đánh Tĩnh Hải quân lần thứ hai. Hôm ấy, sau khi nghe Công Tiễn thuật lại sự tình, Lưu Nghiễm đã mưu tính trong đầu. Hắn cho rằng Dương Đình Nghệ qua đời thì Tĩnh Hải quân không còn tướng giỏi. Vì vậy hắn phong con trai thứ 9 là Lưu Hoằng Tháo làm Bình Hải tướng quân và Giao Chỉ vương, thống lĩnh thuỷ quân. Lưu Nghiễm cười đắc thắng với suy nghĩ của mình và hắn chắc mẩm rằng lần này sẽ thành công. Trước khi tiến đánh Tĩnh Hải quân, Lưu Nghiễm đã hỏi kế ở Sùng Văn hầu là Tiêu Ích. Ích nói “Nay mưa dầm đã mấy tuần, đường biển thì xa xôi nguy hiểm, Ngô Quyền lại là người kiệt hiệt, không thể khinh suất được. Đại quân phải nên thận trọng chắc chắn, dùng nhiều người hướng đạo rồi sau mới nên tiến. Tuy nhiên, Lưu Nghiễm đang muốn tấn công đánh chiếm Tĩnh Hải quân một cách nhanh chóng nên đã không nghe theo lời khuyên này. Có lẽ hắn không ngờ được rằng sự khinh suất của mình đã dẫn đến một trận chiến thảm hại cho đội quân của hắn và cho chính hắn. Trong khi quân Nam Hán vẫn chưa sang tới Tịnh Hải quân, thì Ngô Quyền đã tiến ra thành Đại La. Không có viện binh, Kiều Công Tiễn thân cô thế cô và điều gì đến cũng đến, hắn nhanh chóng bị hạ. Sự quyết đoán của Ngô Quyền khiến cho binh sĩ hoàn toàn tin tưởng và nghe theo sự chỉ đạo của ông. Một chủ tướng giỏi và một đội quân tin vào chủ tướng của mình đã tạo nên một sức mạnh lớn lao cho Tịnh Hải quân. Buổi ấy, trời cao và trong xanh như một dự báo về điềm lành sắp tới. Nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, Ngô Quyền đã đứng lên và bảo với các tướng của mình một cách đầy tự tin rằng “Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khoẻ địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngực, không cho chiếc nào ra thoát.” Lời nói của Ngô Quyền thể hiện rõ sự tự tin, bản lĩnh. Ông đã truyền cho tướng sĩ của mình một niềm tin sắt đá vào chiến thắng vang dội. Theo sự chỉ huy của Ngô Quyền, quân sĩ đã đóng cọc có bịt sắt nhọn xuống lòng sông Bạch Đằng. Mưu đồ của Ngô Quyền chính là dụ cho địch vào khu vực này khi thuỷ triều lên và đợi nước triều rút xuống cho thuyền địch mắc cạn mới giao chiến. Đó là một ngày cuối mùa đông cuối năm 938, trời vẫn còn se se Tháo chỉ huy vừa vượt biển tiến vào cửa ngõ Bạch Đằng. Với tư tưởng chủ quan khinh địch, nhất là khi quân Nam Hán thấy quân của Ngô Quyền chỉ có thuyền nhẹ, chúng tưởng như mình có thể ăn tươi, nuốt sống được quân ta. Nhưng cái giá phải trả cho những kẻ khinh thường người khác là quá đắt. Ngô Quyền đã ra lệnh cho quân sĩ bỏ chạy lên thượng lưu và chờ đợi đến khi thuỷ triều xuống thì mới hạ lệnh cho quân sĩ đổ ra đánh. Đúng như dự tính của Ngô Quyền, thuyền lớn của Nam Hán bị mắc cạn và lần lượt bị cọc đâm thủng gần hết. Hơn một nửa tướng sĩ cùng với Lưu Hoằng Tháo đã bỏ mạng nơi sông Bạch Đằng. Hay tin Hoằng Tháo bại trận, Nghiễm đang cầm quân tiếp ứng đóng ở biên giới nhưng cũng không thể làm gì ngoài việc “thương khóc thu nhặt quân còn lại mà rút lui”. Sông Bạch Đằng nhuốm máu quân thù, trận chiến trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền đã ghi dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc. Vị tướng anh Hùng Ngô Quyền vào năm 939 đã lên ngôi vua, xưng là Ngô Vương, lập ra nhà Ngô, đóng đô ở Cổ Loa, nay là Đông Anh, Hà Nội. Bài văn hay Kể lại một trận chiến đấu ác liệt đã học, được kể hay đã xem Kể lại một trận chiến đấu ác liệt đã học, được kể hay đã xem – Bài làm 2 Trong thế kỷ XIII, dân tộc Việt Nam đã lập nên những chiến công vĩ đại ba lần chiến thắng giặc Nguyên Mông xâm lược. Lần thứ nhất xảy ra vào tháng Giêng năm 1258. Bấy giờ, vua chúa Mông Cổ đang tiến hành cuộc chiến tranh xâm chiếm Trung Quốc. Bên cạnh những đạo quân ồ ạt đánh vào đất Tống, một đạo quân khoảng bốn vạn người, gồm kỵ binh Mông Cổ và binh lính người Thoán Vân Nam, do tướng Ngột Lương Hợp Thai Uryangquadai chỉ huy, từ Vân Nam đánh xuống Đại Việt. Vua Trần là Thái Tông đã đem quân lên chặn giặc ở Bình Lệ Nguyên, bên sông Cà Lồ. Nhưng sau đó, quân ta rút lui để bảo toàn lực lượng trước thế mạnh ban đầu của giặc. Quân ta rút lui, bỏ Thăng Long lại phía sau, nhưng Triều đình nhà Trần và quân dân vẫn không nao núng. Vua tôi nhà Trần đã bàn phương lược đánh giặc trên những con thuyền xuôi sông Hồng. Khi được Thái Tông hỏi ý kiến, Thái sư Trần Thủ Độ đã trả lời ”Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”. Giặc đóng ở Thăng Long, trong một tòa thành trống, đã khốn đốn vì thiếu lương thực. Chúng cố đánh ra xung quanh để cướp lương thực, nhưng ở đâu cũng gặp sức chống trả mãnh liệt của nhân dân. Vì vậy mà chỉ sau 9 ngày, chúng đã vô cùng hốt hoảng. Đó chính là thời cơ để quân ta phản công. Ngày 29-1-1258, Vua Trần Thái Tông đã đem binh thuyền ngược sông Hồng tiến về Thăng Long. Quân địch bị đánh bật khỏi Kinh thành, theo đường cũ, chạy về Vân Nam. Trên đường tháo chạy, chúng còn bị quân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi tập kích, đánh cho tan tác. Sau lần thất bại đó, bọn vua chúa Mông Cổ vướng vào cuộc nội chiến 1259 -1264 và cuộc chiến tranh với Tống 1267-1279 nên chưa thể tiếp tục ngay cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mãi đến năm 1279, nhà Tống mất, toàn bộ đất Trung Quốc đã nằm dưới ách thống trị của nhà Nguyên, vua Nguyên là Hốt Tất Liệt Quibilai mới chuẩn bị xâm lược nước ta bằng quân sự. Sau khi không thể khuất phục được Đại Việt bằng những sứ bộ ngoại giao, cuối năm 1284, đạo quân Nguyên Mông do Thoát Hoan Toan, con trai Hốt Tất Liệt, và A Lý Hải Nha Ariquaya chỉ huy, đã lên đường, bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ hai. Lần này, ngoài cánh quân lớn của Thoát Hoan đánh vào mặt Lạng Sơn, Vua Nguyên còn sai Nạp Tốc Lạt Đinh Nasirud Din đem một cánh quân từ Vân Nam đánh vào mặt Tuyên Quang, và ra lệnh cho Toa Đô Sogatu đem đạo quân còn đóng ở Bắc Chămpa, đánh vào mặt Nam của Đại Việt. Sau một vài trận đánh chặn giặc ở mặt Lạng Sơn và Tuyên Quang, trong tháng 2/1285, quân ta lại rút lui và lần nữa bỏ trốn Thăng Long, kéo về mạn Thiên Trường và Trường Yên Ninh Bình. Và để tránh cái thế bị kẹp vào giữa các gọng kìm của giặc, đại quân và Triều đình chờ cho cánh quân của ba Đô tiến đến Trường Yên Ninh Bình thì rút vào Thanh Hóa. Trong khi một bộ phận lớn quân chủ lực rút, thì khắp nơi, quân địa phương và dân binh các lộ, phối hợp với các cánh quân nhỏ của Triều đình để lại đã không ngừng tập kích, tấn công vào quân địch ở vùng bị chiếm đóng. Kế hoạch ”vườn không nhà trống” được toàn dân thực hiện. Giặc đóng quân phân tán, thiếu lương thực, có nguy cơ bị tiêu diệt. Mùa hè đến, lại giáng lên đầu chúng những tai họa mới. Sử Nguyên chép “Bệnh dịch hoành hành… Nước lụt dâng to, ngập ướt doanh trại… “. Thời cơ phản công của quân ta đã tới. Tháng 5/1285, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn dẫn đại quân tiến ra Bắc. Kế hoạch diệt địch như sau Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải và một số tướng lĩnh được giao nhiệm vụ diệt địch trên phòng tuyến sông Hồng, còn Hưng Đạo Vương, đem quân vòng qua vùng Hải Đông, tiến lên Vạn Kiếp, chặn đường tháo chạy của địch. Cục diện chiến tranh xảy ra đúng như dự liệu cuối tháng 5-1285, Trần Quang Khải cùng với Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản đã đánh tan giặc ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, rồi tiến lên giải phóng Thăng Long. Thoát Hoan hoảng hốt, rút khỏi Thǎng Long, chạy về phía Vạn Kiếp. Đến đây, bọn giặc lọt vào trận địa mai phục của Trần Hưng Đạo, chúng bị thương vong rất nhiều. Đám tàn quân hoảng loạn cố mở đường máu tháo chạy. Nhưng đến biên giới Lạng Sơn, chúng lại bị quân ta chặn đánh. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng rồi bắt quân lính khiêng chạy về nước. Viên đại tướng Lý Hằng đi đoạn hậu, bị tên độc trúng đầu gối, về đến Tư Minh thì chết. Trong khi cánh quân Thoát Hoan chạy về phía Lạng Sơn thì cánh quân Nạp Tốc Lạt Đinh tìm đường tẩu thoát về Vân Nam, cũng bị quân dân ta tập kích, đánh cho tơi bời. Không biết Thoát Hoan đã bỏ chạy, Toa Đô kéo ra Bắc, theo sông Hồng định về Thǎng Long, nhưng đến Tây Kết thì bị quân ta chặn đánh. Toa Đô bị chém. Thế là cuộc chiến tranh xâm lược của Nguyên Mông lần thứ hai hoàn toàn thất bại. Ngay sau thất bại năm 1258, Hốt Tất Liệt đã ra lệnh chuẩn bị một cuộc chiến tranh xâm lược mới. Nhưng phải đến cuối năm 1287, các đạo quân viễn chinh mới có thể lên đường. Một đạo do Thoát Hoan và áo Lỗ Xích Agurucxi chỉ huy tiến vào Lạng Sơn. Một đạo khác, do ái Lỗ Airuq cầm đầu, từ Vân Nam đánh vào Tuyên Quang. Lần này, không còn cánh quân phía Nam, nhưng Vua Nguyên lại phái thêm một cánh thủy quân, sai ô Mã Nhi Omar chỉ huy, hộ tống đoàn thuyền tải lương của Trương Văn Hổ vào Đại Việt theo đường biển. Tháng 12/1287, khi đoàn thuyền chiến của ô Mã Nhi tiến vào vùng biển An Bang Quảng Ninh, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư đem thủy quân chặn đánh, nhưng không cản được giặc. Ô Mã Nhi cho binh thuyền tiến thẳng vào cửa sông Bạch Đằng, không chú ý đến đoàn thuyền lương nặng nề chậm chạp ở sau. Mãi đến tháng 1/1288, đoàn thuyền lương của giặc mới tiến đến vùng đảo Vân Đồn. Trần Khánh Dư lại đem quân tập kích. Trương Văn Hổ chống đỡ không nổi, đổ cả lương thực xuống biển, trèo lên một chiếc thuyền nhỏ, trốn về Quỳnh Châu Hải Nam. Bấy giờ, Thoát Hoan cũng đã tiến vào Lạng Sơn, hội quân với cánh quân thủy của ô Mã Nhi ở Vạn Kiếp. Thoát Hoan dừng lại ở đây gần một tháng, xây dựng Vạn Kiếp thành một căn cứ vững chắc, mãi đến cuối tháng 1/1288 mới chia quân tiến về Thăng Long. Lần thứ ba, quân dân nhà Trần lại bỏ ngỏ Thăng Long. Quân Nguyên vào Thăng Long ngày 2/2/1288. Ngay sau đó, Thoát Hoan vội sai ô Mã Nhi đem chiến thuyền ra biển đón thuyền lương của Trương Văn Hổ. Nhưng thuyền còn đâu nữa. Không có lương thực, đạo quân Thoát Hoan đóng ở Thăng Long lâm vào tình thế khốn quẫn. Thoát Hoan phải ra lệnh rút quân về Vạn Kiếp. Trên đường rút về Vạn Kiếp, giặc bị quân ta chặn đánh ở cửa Ba Sông, vùng Phả Lại. Kéo về đóng ở Vạn Kiếp, đạo quân xâm lược vẫn bị quân ta tập kích ngày đêm. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, bọn tướng Nguyên đã nói với Thoát Hoan ”ở Giao Chỉ, không có thành trì để giữ, không có lương thực đủ ăn, mà thuyền lương của bọn Trương Văn Hổ lại không đến. Vả lại khí trời đã nóng nực, lương hết, quân mệt, không lấy gì để chống đỡ lâu được, làm hổ thẹn cho triều đình, nên bảo toàn quân mà về thì hơn” Trước tình hình đó, Thoát Hoan quyết định rút quân về nước theo hai đường cánh quân bộ rút qua vùng Lạng Sơn, còn cánh quân thủy sẽ rút ra biển theo sông Bạch Đằng. Kế hoạch rút lui của giặc không nằm ngoài dự liệu của Trần Hưng Đạo. ông đã bố trí chặn giặc ở vùng biên giới và chuẩn bị cho một trận quyết chiến lớn trên sông Bạch Đằng. Từ tháng 3, quân sĩ và nhân dân đã đẵn gỗ lim, gỗ táu ở rừng về đẽo nhọn, đóng xuống lòng sông, làm thành những bãi cọc lớn. Thủy quân và bộ binh ta đã phục sẵn trong các nhánh sông và các khu rừng rậm ven sông Bạch Đằng, chờ ngày tiêu diệt địch. Sáng ngày 9/4/1288, đoàn thuyền chiến của ô Mã Nhi tiến vào sông Bạch Đằng. Khi đoàn thuyền giặc lọt vào trận địa mai phục của ta thì từ các nhánh sông, các thuyền nhẹ của ta lao ra, đánh tạt vào sườn giặc, dồn chúng vào các bãi cọc. Giặc định áp thuyền sát bờ, đổ quân chiếm lấy núi cao để yểm hộ cho đoàn thuyền rút, nhưng bị bộ binh ta đánh hắt xuống. Một trận kịch chiến ác liệt đã xảy ra. Nước triều xuống gấp, thuyền giặc to nặng, lao nhanh theo dòng nước, vướng cọc, tan vỡ rất nhiều. Cho đến giờ dậu 5-7 giờ tối, toàn bộ đạo quân thủy của giặc bị tiêu diệt. ô Mã Nhi bị bắt sống. Lần thứ ba trong lịch sử giữ nước của dân tộc, dòng Bạch Đằng lại ghi thêm một chiến công oanh liệt. Trong khi đó, đạo quân của Thoát Hoan cũng khốn đốn rút chạy ra biên giới. Sau khi bị phục kích ở cửa ải Nội Bàng, chúng bỏ con đường ra ải Khâu Cấp, vòng theo đường Đan Ba Đình Lập, chạy tạt ra biên giới. Nhưng ở đây, chúng cũng bị quân ta chặn đánh, tướng giặc là A Bát Xích Abaci bị trúng tên. Mãi đến ngày 19/4/1288, đám tàn quân của Thoát Hoan mới về đến Tư Minh. Chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt đã chôn vùi vĩnh viễn mộng xâm lược của Hốt Tất Liệt. Kể lại một trận chiến đấu ác liệt đã học, được kể hay đã xem – Bài làm 3 Đêm đã rất khuya… Ngoài trời, những vệt sáng mờ mờ đầu tiên của một ngày mới đã xuất hiện. Trong những xóm làng gần đó đã cất lên thưa thớt vài ba tiếng gà gáy vang vọng. Sự yên lặng bao phủ toàn doanh trại. Các binh sĩ đều đã đi ngủ cả, chỉ nghe tiếng thở đều nhè nhẹ, tiếng cuốc kêu não nuột vang trong đêm vắng. Nhưng trong bóng tối và cái tĩnh mịch ấy, ở một góc trại, vẫn còn một ánh đèn sáng. Bên chiếc đèn dầu gần cạn chỉ còn le lói, vị chủ tướng đang ngồi trầm ngâm, mắt đăm đăm nhìn về phía trước. Trên bàn, cuốn binh thư đọc dở nằm im như chờ đợi. Ánh sáng yếu ớt hắt lên khuôn mặt suy tư, đôi mày nhíu lại, chòm râu đen và đôi mắt sáng rực như hai vì sao. Đó chính là Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo. Làm cách nào? Làm cách nào? Trong đầu vị chủ tướng vẫn trăn trở câu hỏi. Chỉ còn một ngày nữa thôi, vào rạng sáng, đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi sẽ xuôi dòng Bạch Đằng để rút về nước. Đây là thời cơ thuận lợi để quân ta phản công, để giải phóng đất nước. Thời gian đã gấp rút lắm rồi. Vậy mà ông chưa nghĩ ra cách đánh nào thích hợp, đảm bảo chiến thắng cho quân ta. Đánh địch đã khó nhưng chiến thắng chúng còn khó khăn hơn rất nhiều lần! Trần Hưng Đạo chợt nhớ bài học lịch sử xa xưa – năm 938, Ngô Quyền đã đánh thắng quân Nam Hán… Đúng rồi, chỉ có cách đánh của Ngô Quyền mới thật là thượng sách. Trong ông luồng nhiệt huyết lại bốc cháy bừng bừng, ông thầm cảm ơn vị dũng tướng họ Ngô đã cho ông một ý tưởng. Vừa lúc đó, gà gáy báo trời đã sáng hẳn. Trần Hưng Đạo ban lệnh toàn quân vào rừng đẵn gỗ làm cọc. Dân chúng cũng hồ hởi đì theo giúp. Họ đẵn những cây gỗ chắc khoẻ như lim hay táu. Cây đổ ầm ầm. Khắp nơi chỉ nghe tiếng rìu, tiếng cưa ồn ào, náo động. Người ta dùng dao, dùng rìu chuốt nhọn đầu những thanh gỗ thành những cọc nhọn cao quá đầu người, có cái cao đến hai trượng sáu, to đến nỗi một vòng ôm mới đủ. Đầu nhọn được lấy sắt bọc lại, lúc này mỗi chiếc cọc trở thành một thứ vũ khí vô cùng lợi hại cho những gì sẽ va vào nó. Nhìn cảnh làm việc như vậy, Trần Hưng Đạo rất hài lòng. Ông sung sướng ngắm nhìn những chiếc cọc nhọn mà tin tưởng vào chiến thắng sắp tới. Sau khi cọc đã đủ, Trần Hưng Đạo cho đóng cọc xuống khúc sông gần ngã ba sông Chanh. Đây quả là một địa thế thuận lợi do thuỷ triều lên xuống nhanh và mạnh. Tại đây, những người lặn giỏi như Yết Kiêu lại có dịp trổ tài. Ở trên, những thanh niên khoẻ mạnh ngồi trên thuyền, đưa những chiếc cọc nặng xuống dưới, cắm sâu vào lòng sông. Còn dưới mặt nước, những người thợ lặn đã chờ sẵn. Họ đỡ những chiếc cọc, thận trọng chỉnh lại hướng và độ vững chắc trước khi ngoi lên. Người đâm, kẻ đỡ thật ồn ào náo nhiệt. Trên bờ, Trần Hưng Đạo ngắm nhìn trận địa cọc đang dần hình thành. Lúc này thuỷ triều đang rút, ta có thể nhìn thấy những cọc nhọn hoắt nhô lên trông thật nguy hiểm. Cọc này sát với cọc kia như bàn chông, đứng vững như bàn thạch, không hề suy chuyển khi bị những cơn sóng to ập vào. Ông mỉm cười sung sướng rồi đích thân chuẩn bị ở hai bên bờ. Những toán quân khoẻ mạnh, nhanh nhẹn được chọn ra. Những bùi nhùi, đá lửa, rơm rạ, dầu cùng những thứ dễ cháy đã được bà con giấu sẵn vào luồng lạch hoặc hai bên bờ những nơi lau lách um tùm rậm rạp gần đó để phóng hoả khi cần thiết. Người làm việc nọ, kẻ giúp việc kia, thật khẩn trương nhưng vẫn chu đáo, cẩn trọng. Họ thi nhau đóng những chiếc thuyền nhỏ, nhẹ, bằng gỗ chuẩn bị cho cuộc tiến công. Giữa lúc ấy, trên bờ những quân sĩ còn lại cũng không chịu ngồi yên. Họ rèn đúc khí giới, mài dao thêm sắc, mài gươm thêm nhọn, chuẩn bị cung tên. Nhóm thì đấu vật, nhóm thì đấu gươm. Tinh thần hăng hái không kể đầu cho xiết. Thấm thoát đến chiều tối thì mọi việc cũng đã xong. Những quân sĩ vẫn chưa ngủ. Họ ngồi lại nghe một người đọc lại bài hịch của Hưng Đạo Vương “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng…”. Lời hịch vang lên khiến lòng người rạo rực, bừng bừng trong máu, trong tim. Doanh trại lại ồn ào tiếng múa gươm, múa kiếm sôi động nhộn nhịp. Tưởng như đang diễn ra một cuộc chiến đấu. Trống đã điểm canh hai, tờ mờ sáng, bỗng gần cửa sông Bạch Đằng xuất hiện một đoàn thuyền chiến dài dằng dặc làm chật cả khúc sông. Những cánh buồm làm thẫm màu nước. Chiêng trống vọng ra ầm ầm như sấm, như sét… Quanh hai bên bờ không một bóng người. Lúc này thuỷ triều đang dâng lên cao, chỉ thấy mênh mông màu nước trắng xoá, những bụi lau lách ven bờ. Thỉnh thoảng vọng lại vài tiếng chim thưa thớt. Trọng thuyền, Ô Mã Nhi đang nằm ung dung trên đệm gấm, mừng rỡ nói với các tướng “Quân Trần thấy ta là sợ mất mật, còn sức đâu mà đánh!”. Y lại càng yên tâm hơn vì sắp ra đến biển rồi, quân ở đâu ra cũng khó cản đường một đoàn thuyền đông đúc! Thuyền chậm lại dần. Bỗng dậy lên tiếng trống, tiếng chiêng đầy náo nức, vọng hết cả mặt sông. Từng đàn chim bay loạn xạ từ những bụi cây. Ô Mã Nhi giật mình chạy ra ngoài nhìn. Tiếng trống vẫn cứ rộn rã. Quân Nguyên đang ngơ ngác, bỗng thấy trước mặt xuất hiện một đoàn, thuyền nhẹ. Trên con thuyền dẫn đầu là tướng quân Nguyễn Khoái, tay cầm một thanh đao, thét lớn “Ồ Mã Nhi, ta chờ mày ở đây lâu rồi, mày chạy đâu cho thoát”. Nguyễn Khoái đứng hiên ngang, thân thể cao lớn, vững như tượng đồng, cùng quân sĩ tấp vào thuyền giặc. Tiếng trống vang vang. Những mũi tên bay từ đâu tới tấp vào quân giặc. Ô Mã Nhi giơ khiên lên đỡ, cùng người tướng là Phàn Tiếp xông ra Nhưng vừa đánh nhau một lúc, bỗng Nguyễn Khoái thét lớn với quân sĩ “Anh em, sức giặc còn mạnh, người còn đông, chưa thể hạ được, chúng ta rút lui!”. Quân sĩ dạ ran. Rồi đoàn thuyền nhỏ chèo nhanh trở lại. Kể lại một trận chiến đấu ác liệt đã học, được kể hay đã xem – Bài làm 4 Mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789, quân của Nguyễn Huệ nước An Nam vượt sông Gián Thủy đánh bại quân phòng thủ của Lê Duy Kỳ Lê Chiêu Thống, lại bắt toán quân Thanh tuần thám giết sạch. Ngày mồng hai, Tôn Sĩ Nghị được tin hoảng hốt ngự địch, ra lệnh Tổng binh Trương Triều Long mang ba ngàn quân tăng cường cho các đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi để chống cự, lại ra lệnh cho ề đốc Hứa Thế Hanh mang một ngàn năm trăm tên, tự đốc suất một ngàn hai trăm tên để tiếp ứng. Quân Nguyễn Huệ tiến tới đông như ong, vây đồn bốn phía, đánh nhau một ngày một đêm, quân Thanh bị đánh tan bèn bỏ chạy. Vào canh năm ngày mồng 5 Nguyễn Văn Huệ mang đại binh tiến đánh, thân tự đốc chiến, dùng một trăm thớt voi khỏe làm tiên phong. Rạng sáng quân Thanh cho kỵ binh nghênh đón địch, ngựa bị voi quần kinh hãi bỏ chạy, quân rút lui vào trại cố thủ. Phía ngoài trại, lũy đầy chông sắt, bên trong bắn súng ra cự địch. Vào giờ Ngọ quân Nguyễn bắn hỏa châu, hỏa tiễn tới tấp; lại dùng rạ bó to lăn mà tiến đều, khinh binh theo sau, trước ngã sau tiến lên một lòng quyết chiến, tại các trại quân Thanh đồng thời tan vỡ, quân Nguyễn thừa thắng chém giết, quân Thanh tử thương quá nửa. ề đốc Hứa Thế Hanh thấy thế lực nhiều ít rõ ràng, bảo gia nhân đem ấn triện ề đốc mang đi, rồi ra sức đánh, bị chết tại trận. Lúc này quân địch càng bị giết càng nhiều, chia cắt quân Thanh từng nhóm rồi vây kín. Thống soái Tôn Sĩ Nghị mất liên lạc với Hứa Thế Hanh và các đại viên ề, Trấn; bèn ra lệnh Phó tướng Khánh Thành, ức Khắc Tinh Ngạch mang ba trăm quân đoạt vây chạy về phía bắc. Khi tàn quân của Tôn Sĩ Nghị chạy đến bờ sông, thì số quân Thanh ba ngàn tên trú đóng tại bờ phía nam đã được Tổng binh Thượng Duy Thanh mang đi tiếp ứng cho Hứa Thế Hanh, bèn ra lệnh cho Tổng binh Lý Hóa Long vượt qua cầu nổi chiếm cứ bờ phía bắc, để tiện việc yểm hộ qua sông. Không ngờ Lý Hóa Long đi đến giữa cầu, trượt chân rơi xuống nước chết, số quân mang đi kinh hãi không biết làm gì. Tôn Sĩ Nghị ra lệnh Khánh Thành yểm hộ mặt sau bằng cách bắn súng điểu thương vào quân Nguyễn Văn Huệ đang truy kích, riêng mình tự mang quân theo cầu nổi lui về bờ phía bắc; rồi lập tức cho chặt đứt cầu nổi, cùng với bọn Khánh Thành rút lui về sông Thị Cầu. Quân Thanh tại phía nam sông thấy cầu đã bị đứt chìm, không có đường về, bèn đánh trở lại thành nhà Lê. Các Tổng binh Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long, Phó tướng Na ôn Hành, Tham tướng Dương Hưng Long, Vương Tuyên, Anh Lâm đều tử trận. Tri châu iền Châu Sầm Nghi ống không được viện binh đành tự tử, số thân binh tự tử cũng đến hàng trăm. Quốc vương An Nam Lê Duy Kỳ vào lúc binh thua tới dinh Tôn Sĩ Nghị họp bàn, thấy Tôn Sĩ Nghị đã bỏ chạy, bèn hoảng hốt vượt sông chạy lên phương bắc, đến đây nhà Lê diệt vong. Nguyễn Văn Huệ xua quân tiến vào thành, chiến bào mặc trên người nhuốm đen, do bởi thuốc súng. ề đốc Ô ại Kinh mang đạo quân Thanh tại Vân Nam xuất phát từ Mã Bạch quan vào ngày 20 tháng 11 năm ngoái, đến Tuyên Quang vào ngày 21 tháng 12; khi đến sông Phú Lương thấy cầu nổi bằng tre đã bị chìm đứt, nhìn sang bên kia bờ thấy lửa rực bốn phía, bèn triệt hồi Tuyên Quang, rồi lập tức lui vào trong nước. Cuộc chiến vẫn còn tiếp tục, nhưng rõ ràng rằng phần thắng sẽ thuộc về những lý tưởng chiến đấu vì chính nghĩa. Tinh thần hy sinh và tài năng của dân tộc ta một lần nữa được khẳng định với bạn bè năm châu khi một lần nữa nhắc lại chiến công oai hùng. Kể lại một trận chiến đấu ác liệt đã học, được kể hay đã xem – Bài làm 5 Đất nước Việt Nam ta, trải qua bao thăng trầm lịch sử, với bao chiến công lẫy lừng. Ngày hôm nay, sau hơn 50 năm đã qua, tôi lại được nghe kể về chiến thắng Điện Biên Phủ, đặc biệt là trận chiến trên đồi AI năm xưa. Trong các trận đánh ở chiến dịch Điện Biên Phủ thì trận đánh ở đồi AI là một trong những trận đánh ác liệt nhất. Trung đoàn 102, Đại đoàn 308 được lệnh tấn công đồi AI. 17 giờ 30 ngày 31 tháng 3, các phân đội chiếm lĩnh trận địa. 18 giờ 15, pháo binh ta kiềm chế pháo địch và bắn phá đồi A1, các mũi xung kích mở cửa. Sau 15 phút, cả hai mũi xung kích đã hoàn toàn làm chủ tầng phòng ngự phía dưới, diệt một số địch, bắt sống 15 tên. Địch co lên tầng trên, các chiến sĩ tiếp tục xung phong về phía ụ đất khó hiểu trẽn đỉnh đồi. Địch bỗng biến mất và hàng rào lửa đại bác lại xuất hiện trước mặt họ. Các chiến sĩ dũng cảm vượt qua lưới lửa nhằm phát hiện cửa hầm ngầm. Họ chỉ tìm thấy một ngách phụ có quân địch, lập tức sử dụng bộc phá diệt được 20 tên, bắt sống 4 tên, thu được một số súng đạn. Tình hình diễn ra giống lúc trước, bộ đội ta tổ chức bốn đợt xung phong đều không vượt khỏi tuyến hào ngang trước hầm ngầm. Sáng hôm sau, địch được tiếp viện, tổ chức phản kích. Hầu hết các ụ súng, các đường chiến hào đều bị đạn bom nghiền nát. Riêng ụ đất đỏ vẫn sừng sững trên đỉnh đồi. Cứ thế, cuộc chiến đấu trên đồi A1 diễn ra giằng co từ ngày 31 tháng 3 đến ngày 2 tháng 4, Trung đoàn 174 lên thay thế Trung đoàn 102. Ta tổ chức chiến đấu hạn chế quân địch, bảo vệ cho một đội đặc nhiệm gồm 25 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Nguyễn Phú Xuyên Khung – cán bộ công binh của bộ trực tiếp chỉ huy đào đường hầm ở A1 ngay trước mũi súng quân địch, trong tầm kiểm soát của lựa đạn. Đất đồi A1 cực kì rắn. Tiểu đội trưởng công binh Lưu Viết Thoảng lựa chọn một tổ khoẻ nhất mở cửa hầm. cả đêm đầu chỉ khoét được vào vách núi mỗi chiều 90 xăng-ti-mét. Địch không ngừng bắn súng và ném lựu đạn. Nhiều đồng chí bị thương và hi sinh trong khi làm nhiệm vụ. Có lẽ đây chính là sự việc để nhà thơ Tố Hữu viết Hoan hô chiến sĩ Điện Biên Chiến sĩ anh hùng Đầu nung lửa thép Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hẩm, mưa dầm, cơm vắt. Máu trộn bùn non Gan không núng Chí không mòn! Ngày 5 tháng 5 đường hầm ở A1 đã hoàn thành. Trong đêm, một tấn bộc phá chia thành những gói hai mươi kilô, được đưa vào đặt dưới hầm ngầm của địch. Bộ chỉ huy mặt trận quyết định đẩy nhanh nhịp độ phát triển của đợt tấn công thứ ba, chuẩn bị mọi điều kiện sớm chuyển sang tổng công kích. Sáng ngày 6 tháng 5, Tiểu đoàn 255 của 174 phòng ngự suốt ba mươi tư ngày đêm trên đồi A1 được lệnh rút qua đồi Cháy làm lực lượng dự bị. Tiếng nổ của khối bộc phá trên A1 được chọn làm hiệu lệnh xung phong cho đợt tiến công tối nay. 20 giờ, hoả lực của ta tập trung bắn vào A1, C2, cứ điểm 506, bắc Mường Thanh, cứ điểm 310, tây Mường Thanh. Lần này có thêm sự phối hợp của 12 dàn hoả tiễn sáu nòng. Đợt pháo hoả kéo dài 45 phút. Địch phản ứng yếu ớt, nhưng chúng đã có chuẩn bị. Khi pháo ta ngừng bắn, tất cả những khẩu pháo còn lại của tập đoàn cứ điểm tập trung trút đạn xuống những trận đại chiến hào của ta xung quanh A1 và C2. Đúng 20 giờ 30, một tiếng nổ trầm, trên đồi A1 có một đám khói lớn đang phụt lên. Bộ đội ta từ các phía đồng loạt tiến công, các trung đoàn cũng lần lượt tấn công các cứ điểm trên đồi C1, D1,… cắt đứt con đường tiếp viện của địch từ Mường Thanh lên. Trận AI chiến thắng, bắt sống tướng Đờ-cát và hàng loạt lính Pháp đầu hàng vô điều kiện . Trận chiến đấu ác liệt trên đồi A1 đã kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ trong chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Dù có nhiều chiến sĩ đã hi sinh anh dũng như Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện, Bế Văn Đàn,… nhưng tên tuổi các anh đã và đang còn sống mãi với chiến thắng hào hùng của dân tộc. Chiến thắng đó là niềm tự hào của chúng ta Chín năm là một Điện Biên Nên vành hoa đỏ, nên trang sử vàng. Những bài văn mẫu Kể lại một trận chiến đấu ác liệt đã học, được kể hay đã xem Kể lại một trận chiến đấu ác liệt đã học, được kể hay đã xem – Bài làm 6 Nhà Tây Sơn gồm 3 anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ. Mỗi người xưng vương một miền. Nguyễn Huệ được mọi người gọi là Bắc Bình Vương. Trong thời kỳ đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam những năm 30 cuối thế kỉ XVII, Lê Chiêu Thống rất lo sợ cho cái ngai vàng mọt rỗng của mình nên đã mở đường cho quân Thanh và Tôn Sĩ Nghị kéo quân vào Thăng Long xâm lược nước ta. Ngày 24 tháng 11, Trần Văn Tuyết chạy vào thành Phú Xuân cấp báo cho Bắc Bình Vương về việc quân Thanh xâm lược nước ta; Lê Chiêu Thống nhận sắc phong của vua nhà Thanh là Nam Quốc Vương, Ngô Văn Sở cho quân rút lui về Tam Điệp nghĩa là nước ta mất từ cửa ải phía Bắc đến Thăng Long. Nghe được tin cấp báo Bắc Bình Vương giận lắm. Biết là biến cố lớn ông quyết định mở cuộc tấn công ra Bắc đại phá quân Thanh. Ông cho họp các tướng sĩ, định thản chình cầm quân đi ngay nhưng mọi người đến họp đều ngăn lại, xin ngài trước hết hãy chính vị hiệu; loan lệnh ân xá khắp trong ngoài nước để yên kẻ phản trắc và giữ gìn lòng dân rồi sau cất quân ra đánh dẹp cõi Bắc thuộc là chưa muộn. Bắc Bình Vương lấy làm phải, bèn cho đắp đàn ở trên núi Bân, tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi. Trong nghi lễ, ngoài khoác lên mình chiếc long bào có thêu hình rồng uốn lượn lấp loáng, đầu đội mũ miện cổ đeo chuỗi hạt bằng ngọc, chân đi giày vàng. Trông ngài thật uy nghi và nghiêm trang lên đàng tế lễ trời đất. Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế đổi năm 11 niên hiệu Thái Đức của vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu tiên niên hiệu Quang Trung. Lễ xong, hạ lệnh xuất quân, hôm ấy là ngày 25 tháng Chạp 1788. Vua Quang Trung đã tự mình đốc thúc quân lính cả thủy lẫn bộ cùng ra đi. Ngày 29 ở Nghệ An, vua cho gọi Nguyễn Thiếp người có tài tiên đoán để hỏi về mưu đánh và giữ Nguyễn Thiếp trả lời chuyến này đi không quá 10 ngày quân Thanh sẽ bị dẹp tan. Vua Quang Trung mừng lắm liền sai đại tướng hám hổ đầu tuyển lính ở Nghệ An. Cử ba suất đinh thì lấy một thì lấy một người ai cũng có thân hình vạm vỡ bắp tay cuồn cuộn. Chưa mấy chốc đã được hơn một vạn người, quân tinh nhuệ hàng ngũ thẳng tắp, cờ trống rợp trời, giáo mác sắc nhọn sẵn sàng chiến đấu. Vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn chia làm tiền, hữu, tả, hữu là số quan ở Thuận Hóa, Quảng Nam. Còn số lính mới tuyển ở Nghệ An thì cho làm trung quân. Quang Trung cưỡi voi ra doanh trại an ủi quân lính bằng khẩu dụ vang rõ, sang sảng đầy hào khí trước ba quân, khẳng định niềm tin ý chí quyết thắng của quân đội chính nghĩa. Nghe xong các quân lính đều xin vâng lệnh, không dám ăn ở hai lòng. Hôm sau, vua Quang Trung ra lệnh tiến quân. Các quân đều nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi. Khi đến núi Tam Điệp Sở và Lân đều ra đón, mang gươm trên lưng mà xin chịu tội. Vua phân tích rõ công và tội của Sở và Lân. Vua đã cho Ngô Thị Nhậm ở lại làm việc cùng Sở và Lân nhằm mục đích bày mưu tính kế. Vua Quang Trung lại nói lần này phương lược tính sẵn rồi chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được quân Thanh. Nhưng chúng gấp mười lần nước mình thua đau sẽ trả thù đời thì đời sống của nhân dân sẽ vô cùng khốn khổ vì nạn binh đao. Chờ mười năm nữa nước ta lớn mạnh có sợ gì chúng. Bọn Sở và Lân đều lạy tạ, trong lòng chúng thấy rất rõ sự am hiểu, quân lệnh nghiêm chỉnh và vô cùng cảm kích trước sự vị tha độ lượng của vua Quang Trung. Đêm 30 tháng Chạp vua cho mở tiệc ăn khao quân, chia quân làm ba đạo và bảo kín với các tướng đêm lập tức lên đường hẹn ngày mùng 7 năm tới thì vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Giọng nói người sang sảng âm vang khắp quan lính. Xong bữa tiệc ai cũng vui mừng, vui chơi thỏa thích. Đúng ngày, cả năm đạo quân đều vâng lệnh, gióng trống lên đường ra bắc. Để giữ sức cho binh lính vua cho dùng cáng làm võng cứ 2 người khiêng 1 người ngủ, luôn phiên đi suốt ngày đêm. Khi đến sông gián, ai nấy đều mệt lử, áo quần lôi thôi, mặt mũi bơ phờ, người bám đầy bụi bặm do hành quân quá dài nhưng vì lòng yêu nước yêu tổ quốc nghĩ đến lời an ủi của vua binh lính lại phấn chấn, sẵn sàng chiến đấu. Nghĩa binh giặc trấn thủ ở đó tan vỡ chạy trước nháo nhác, lúc đến sông Thanh Quyết, toán quân Thanh đi do thám từ đằng xa trông thấy bóng cũng chạy nốt vừa cho binh lính chạy theo bắt sống được hết vì vậy quân Thanh không hề có ai về báo tin. Việc tiến quân của ta là hoàn toàn bí mật đến đồi Hà Hồi, Ngọc Hồi. Nửa đêm ngày mùng 3 tháng giêng, năm Kỷ Dậu 1789 vua tới đồn ở làng Hà Hồi huyện Thượng Phúc lặng lẽ vây kín làng rồi dùng kế nghi binh bắc loa truyền gọi ”Quân” Tiếng quân lính luân phiên nhau – Dạ…dạ… Vang khắp cả vùng trời để hưởng ứng nghe như có hơn vài vạn người. trong đồn lúc ấy mới biết, ai nấy run lẩy bẩy rụng rời sợ hãi, liên xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân ta lấy hết. Vua lại truyền lấy 60 tấm ván, cứ ghép liền 3 tấm thành 1 bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là 20 bức, lưng giắt dao ngắn. hai mươi người khác dùng binh khí theo sau, dàn thành hàng ngang. mờ sáng ngày mùng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng phun khói lửa ra,khói tỏa mù mịt, cách gang tấc không nhìn thấy gì hòng làm quân ta hoảng loạn. Không ngờ trời bỗng trở gió Nam khiến khói bay ngược lại, quân Thanh tự hại mình. Quân ta gấp rút khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo 2 bên chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh. Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy toán loạn giày xéo lên nhau mà chết. Tên Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết. Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đống, máu chảy thành suối quân Thanh đại bại. Trước đó, vua Quang Trung đã sai một toán quân theo bờ đê yên duyên kéo lên, mở cờ gióng trống để làm nghi binh ở phía Đông. Đến lúc ấy, quân Thanh đều hết hồn vía, vội vội trốn xuống đầm Mực, làng Quỳnh Đô. Quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp chết đến hàng vạn người. Giữa trưa hôm ấy, vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi kéo vào thành lại nói không nghe thấy tin cấp báo nên trong này Tết mọi người chỉ chăm chú đến yến tiệc. nào ngờ cuộc vui chưa tàn cơ trời đã đổ. Ngày mồng 4 bỗng thấy quân ở đồn Ngọc Hồi chạy về cấp báo, Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dẫn bọn lính kị mã chuồn trước qua cầu phao rồi nhằm hướng Bắc mà chạy. Quân Sĩ nghe tin hoảng hồn, tan tác bỏ chạy đánh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân lính rơi xuống nước đến nỗi nước ở sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa. Quân ta ăn mừng chiến thắng vô cùng giòn giã. Chiến công đại phá quân Thanh đã chứng tỏ nước ta là một nước mạnh mẽ, có độc lập, chủ quyền. Hằng năm dân ta vẫn tổ chức lễ hội Đống Đa để nhớ đến công lao của ông cha ta thời xưa và ôn lại chiến thắng lịch sử hào hùng của dân tộc đã đại phá quân Thanh rất thần tốc. Kể lại một trận chiến đấu ác liệt đã học, được kể hay đã xem – Bài làm 7 Năm 931, Dương Đình Nghệ đánh đuổi quân Nam Hán, giành lại độc lập cho nhân dân vùng Tĩnh Hải quân nhưng sau đó chưa lâu thì bị tướng Kiều Công Tiễn giết hại, âm mưu đoạt chức Tiết độ sứ. Nhận được tin dữ cha vợ bị tên giặc giết hại, Ngô Quyền tập hợp quân lính đem quân ra Bắc đánh tên nghịch tặc vì tội phản chủ. Nghe tin Ngô Quyền sắp đem quân ra đánh, Kiều Công Tiễn sợ hãi, chạy sang cầu cứu quân Nam Hán. Không bỏ lỡ cơ hội này, vua Nam Hán nhanh chóng tập binh lực lượng, giao cho con trai thứ chin là Hoằng Thao đem quân sang xâm lược một lần nữa. Nhận được tin Hoằng Thao đem quân sang đánh, sau khi tập hợp các đạo quân chính nghĩa, Ngô Quyền mang quân tiến ra thành Đại La giết chết Kiều Công Tiễn – kẻ đã “cõng rắn cắn gà nhà”, rước giặc xâm lược bờ cõi nước ta. Ông nói rằng Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa biển thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát. Các tướng lĩnh nghe theo chiến lược của Ngô Quyền, cho là phải lắm. Vừa lợi dụng được lòng hiếu chiến và non nớt của tướng địch, lại vừa có thể dựa vào sức mạnh thiên nhiên, thật không gì có thể tốt hơn được nữa! Ngô Quyền nhanh chóng cho lính chặt những cây gỗ lớn nhất, chờ đến khi đêm xuống mới bắt đầu vát nhọn đầu, bọc sắt, chờ ngày ra trận. Bởi vậy mà mật thám quân thù không hề hay biết, chúng cứ ung dung tiến tới bờ cõi nước ta với thái độ ngông nghênh ngạo mạn. Vào một ngày cuối đông năm 938, tại cửa sông Bạch Đằng, chiến thuyền của quân địch đã tới sát cửa sông. Hoằng Thao vừa đi vừa thét lớn Giao Chỉ bé nhỏ này, chỉ một tay ta là ôm được tất! Ngô Quyền cho lính bơi thuyền nhẹ ra khiêu khích. Giặc hối hả bắn cung, tốt gươm sáng loáng, ta vờ thua lui về phía thượng lưu. Thấy quân sĩ ta chỉ có thuyền nhỏ, quân lại ít, giặc tưởng có thể dễ dàng ăn tươi nuốt sống nên hùng hổ tiến vào. Ngô Quyền lại cho quân lùi sâu hơn nữa. Hoằng Thao hung hăng cho quân lính tiến theo, âm mưu giết sạch hết binh sĩ của ta nhưng không thể ngờ rằng hắn đã sa vào bẫy quân ta giăng sẵn! Chiều đã ngả, triều cường bắt đầu rút xuống rất nhanh. Thuyền giặc lớn nên bị mắc cạn, rơi vào thế “Tiến thoái lưỡng nan”, tiến không được mà lui cũng chẳng xong. Lúc này, Ngô Quyền mới hạ lệnh binh sĩ từ hai bên tả hữu sông Bạch Đằng sông ra đánh. Hoằng Thao hét lên Binh sĩ đâu, tiến lên giành lấy đất Giao Chỉ cho ta! Nhưng thuyền giặc sao có thể tiến thêm được nữa! Quân ta bơi thuyền nhỏ, xông ra tấn công kẻ thù dữ dội. Thuyền lớn của quân địch bị cọc đâm thủng hết, từng tên giặc lần lượt giơ kiếm đầu hàng. Quân Nam Hán thua chạy, còn Hoằng Thao đã tử trận cùng với nửa đám quân sĩ từ lúc nào. Thuyền giặc bốc cháy ngùn ngụt trên dòng sông Bạch Đằng, tiếng reo hò vang dội của quân sĩ ta vang lên. Đó là cái giá phải trả cho những kẻ đi cướp nước! Vua Nam Hán đang cầm quân tiếp ứng ở biên giới, nghe tin con là Hoằng Thao đã tử trận bèn khóc thương rồi cho quân lui về. Từ ấy, nước Nam Hán không còn ôm mộng xâm lược nước ta nữa. Còn về phần Ngô Quyền, sau chiến thắng rực rỡ trên sông Bạch Đằng năm 938, trận thủy chiến oanh liệt của dân tộc ta, năm 939, Ngô Quyền xưng vương, lập ra nhà Ngô, đóng quân ở thành Cổ Loa. Người đời còn nhắc tên vua Ngô Quyền với trận thủy chiến trên sông ấy mãi. Người ta nói rằng đó vừa là một vị tướng tài ba, lại là người am hiểu địa hình của đất nước, xứng đáng trở thành người đứng đầu cho một chính quyền còn non trẻ bấy giờ. Kể lại một trận chiến đấu ác liệt đã học, được kể hay đã xem – Bài làm 8 Tôi là người lính trong nghĩa quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của vua Quang Trung. Được tham gia trận đánh nên tôi thấy rất vẻ vang khi một đất nước nhỏ bé có thể đánh thắng khi quân địch vô cùng mạnh. Đặc biệt là trận đấu Ngọc Hồi- Hà Hồi đại phá quân Thanh. Sau đây tôi xin kể cho các bạn nghe về diễn biến trận đánh ấy mùa xuân Kỉ Dậu năm 1789. Các bạn cũng biết hồi đó vua Lê Chiêu Thống sang cầu cứu nhà Thanh, nhân cơ hội đó Tôn Sĩ Nghị kéo hai mươi vạn quân Thanh đi thẳng vào Thăng Long xâm lược nước ta mà không tốn một mũi tên hạt đạn nào. Được tin đó Bắc Bình Vương- Nguyễn Huệ đã lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung vào ngày 25 tháng Chạp năm 1788. Ngay hôm đó nhà vua đã mở một đội quân ra Bắc và tôi có mặt trong đấy. Có thể nói rằng đó là một cuộc lùi binh thần tốc. Chúng tôi đi suốt ngày đêm không nghỉ bằng chân bộ. Thật là không gì bằng sức con người. Đêm 29 Tết đánh đồn sông Gián Khẩu và đến nửa đêm 30 Tết kế hoạch đánh đồn Hà Hồi. Là đồn nhỏ vua Quang Trung cho chúng tôi dùng mưu kế và trận đánh diễn ra nhanh chóng quân Thanh phải đầu hàng. Quả thực vua Quang Trung đúng là một người tài giỏi. Nhưng khi đánh đồn Ngọc Hồi thì quả là khó khăn bởi đây là đồn lớn ở địa thế bằng phẳng, bảo vệ kinh thành Thăng Long, xây dựng kiên cố, đội quân tinh nhuệ đó là điều bất lợi về phía chúng ta. Vì thế mà ta đã phải chuẩn bị ba tấm ghép thành một bức lấy rơm dấp nước phủ kín mười người khênh một bức, lung dắt dao ngắn dàn theo chữ “nhất” phía sau là đội quân binh tinh nhuệ chỉnh tề được vua Quang Trung trực tiếp chỉ huy. Trận đánh diễn ra mờ sáng mùng 5 Tết khi mà màn sương mù vẫn chưa tan, mưa phùn quân Tây Sơn lặng lẽ bao vây đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh bắn mũi tên có lửa nhưng bị tấm ván cản lại làm vô hiệu hóa. Quân Thanh trong đồn dùng súng bắn ra nhưng không chúng một ai. Nhân lúc có gió Bắc hắn phun khói lửa, khói tỏa mù trời phòng làm quân ta hoảng sợ. Nhưng bỗng trời chuyển gió Nam thành ra quân Thanh tự hại mình. Thật là gậy ông đập lung ông. Trong thành quân địch rối loạn. Thừa thế quân ta xông thẳng vào trong thành văng ván xuống đất. Khi giao gươm của hai bên chạm vào nhau thì ai nấy đều cầm giao ngắn chém bừa. Đội quân phía sau thấy thế xông lên. Khung cảnh lúc thế trận đấu thật là hỗn loạn, tiếng gươm giáo, tiếng la hét gieo hò của nghĩa quân Tây Sơn họ tung hoành trên chiến trường dũng cảm. Vua Quang Trung uy nghi ngồi trên lung voi điều khiển ba quân tiến thẳng vào thành. Thật là một hình ảnh oai phong lẫm liệt. Trong phút chốc quân ta đã chiếm đồn Ngọc Hồi. Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử. Thân nằm đầy đồng, máu chảy thành suối quân địch còn lại bỏ chạy toán loạn. Trưa mùng 5 Tết vua Quang Trung cùng đội quân tiến thẳng vào Thăng Long với tiếng gieo hò của nhân dân, sắc đào của hoa xuân, tiếng pháo nổ của ngày tết. Tôi rất khâm phục khi vua Quang Trung là người trí tuệ, có tầm nhìn chiến lược. Là một người chiến sĩ tôi cũng rất tự hào vì mình cũng góp một công sức để đem thắng lợi về cho dân tộc. Giờ đây khi đất nước đã được thái bình tôi không hề quên được trận đánh vẻ vang đấy. Nghĩ lại thời đấy thì tôi vẫn rất buồn khi có nhiều người đã hi sinh, chúng tôi tự hào về cuộc chiến đấu của mình. Tôi mong rằng sau này đất nước sẽ không còn chiến tranh, mọi người có cuộc sống hạnh phúc. Trận chiến Hà Hồi- Đống Đa đã đi vào trang sử vàng của dân tộc, niềm tự hào của con cháu muôn đời. Kể lại một trận chiến đấu ác liệt đã học, được kể hay đã xem – Bài làm 9 Lịch sử Việt Nam là lịch sử của những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Đó là những lần đánh tan quân Nguyên – Mông xâm lược của vua tôi nhà Trần, là chiến thắng Bạch Đằng lẫy lừng của Ngô Quyền,… Và đặc biệt là chiến công thần tốc của vua Quang Trung – Nguyễn Huệ. Em đã được đọc trận chiến này trong hồi thứ 14 của tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” Ngô gia văn phái trong sách Ngữ Văn lớp 9 tập 1. Quân Thanh viện cớ sang trợ giúp triều đình nhà Lê, dẫn quân xâm lược, chiếm đóng nước ta. Quân Thanh sau khi chiếm đóng lập tức trở nên ngạo mạn, gây ra rất nhiều tội ác. Vì được vua Lê nhượng bộ nên chúng ra sức vơ vét của cải nhân dân ta, ăn chơi, hưởng thụ. Do đó, đất nước ta đã phải rơi vào ách đô hộ, nhân dân phải chịu cảnh lầm than, khổ cực. Quả thật đáng thương xiết bao! Bọn quân tướng nhà Thanh do chiếm đóng quá dễ dàng nên chúng không hề phòng thủ. Lợi dụng điều đó, Nguyễn Huệ vừa mới nhận tin, lập tức quyết định thực hiện 1 cuộc chiến thần tốc quét sạch quân Thanh ra bờ cõi nước Nam. Nguyễn Huệ tế cáo trời đất rồi lên ngôi hoàng đế, niên hiệu là Quang Trung. Vua Quang Trung tự mình đốc suất đại binh cả đường thủy lẫn đường bộ, ngày đêm không nghỉ. Ngày 28 đến Nghệ An, ông tìm gặp La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp xin ý kiến. Nghe xong, vua Quang Trung mừng lắm, lập tức mở cuộc chiêu binh, tuyển thêm lính, cứ ba suất đđinh lấy một suất lính. Hành động ấy cho thấy ông là 1 vị vua quyết đoán, nhanh nhạy, biết trọng người tài. Vua còn khích lệ tinh thần các chiến sĩ. Hôm sau, khi hội quân ở Tam Điệp, ông đã thưởng phạt các binh lính một cách hợp lí. Ông đã dùng tội biến thành cơ hội để sửa chữa, Đúng là một con người anh minh, sáng suốt, có tầm nhìn xa trông rộng, biết dùng người! Vua QT đề ra chiến lược, vạch ra kế hoạch cụ thể, chia quân ra thành 5 đạo tiền, hậu, tả, hữu và trung quân. Ông phân quân cũ cho các tướng còn tự mình chỉ huy số quân mới tuyển để những người lính mới yên tâm chiến đấu, cho binh lính, cho tướng sĩ ăn Tết sớm và xuất quân vào ngày 30 Tết. Quân Tây Sơn tiến đến sông Gianh, đánh tan tác quân Thanh. Đội quân thần tốc tiến lên bắt gọn đám quân Thanh do thám. Do đạo quân Tây Sơn hành quân nhanh và các đám quân do thám bị bắt, quân Thanh từ Hà Hồi tới Thăng Long không biết gì về cử động của quân Tây Sơn. Nửa đêm mồng 3, quân Tây Sơn tiến đến làng Hà Hồi. Dười sự lãnh đạo tài tình của vua Quang Trung, quân vây kín làng rồi sai bắc loa kêu gọi quân Thanh đầu hàng. Quân Thanh bị bất ngờ, sợ mất vía trước sự áp sát quá nhanh của quân Tây Sơn, không kịp kháng cự, vôi vàng ra hàng và để mất hết lương thực, khí giới vào tay quân TS. Càng về sau, vua QT-NH càng chứng tỏ được tài dụng binh như thần, cách đánh giặc đầy mưu trí, khéo léo, vừa không làm tổn thất lực lượng, vừa giành được thắng lợi nhanh chóng. Vua QT truyền lấy 60 tấm ván ghép vào nhau, cứ ba tấm thành một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín. Sau đó, cứ 10 người thì cầm 1 bức, lưng giắt dao ngắn, 20 người khác cầm binh khí theo sau, dàn trận thành hình chữ “nhất”. Đội quân trông rất hùng hậu, chỉ cần nhìn thôi cũng đủ khiếp sợ. Vua QT oai phong, lẫm liệt đích thân đốc thúc đại quân, tiến sát đến đồn Ngọc Hồi vào mờ sáng mồng 5 Tết. Quân Thanh chống trả kịch liệt, nổ sung bắn ra, lợi dụng hướng gió Bắc, tung khói lửa về hướng quân TS. Nào ngờ, trời dột ngột đổi gió khiến quân Thanh tự làm hại mình. Quả thật, sự chính nghĩa của quân TS đã khiến trời cũng phải động lòng giúp đỡ. Chống trả không nổi, chúng bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Thái thú Sầm Nghi Đống vì nhục mà thắt cổ chết. Với khí thế như vũ bảo, quân TS truy kích quân Thanh đến cùng, lùa voi giày đạp chết đến hàng vạn người. Giữa trưa hôm ấy, vua QT tiến binh đến Thăng Long rồi kéo vào thành. Tôn Sĩ Nghị và bọn vua tôi nhà Lê không hay biết gì, vẫn cứ vui chơi, yến tiệc linh đình. Đến mồng 4, chúng mới nhận được tin cấp báo từ đồn Ngọc Hồi. Khi quân TS tràn vào, TSN sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, vội vã bỏ trốn. Mất đi người cầm đầu, quân Thanh không tránh khỏi sự hoảng loạn, mạnh ai người nấy chạy, tan tác như ong vỡ tổ. Vua quan nhà Lê cũng chịu chung số phận bi thảm, phải rời bỏ đất nước, chạy trốn sang TQ. Như vậy, chỉ trong mấy ngày ngắn ngủi, quân TS đã giành thắng lợi to lớn, quét sạch bọn xâm lăng, giữ yên bờ cõi, đem lại độc lập cho nước nhà. Chiến công thần tốc đại phá quân Thanh đã ghi một dấu ấn vẻ vang, đã viết thêm một trang vàng chói lọi cho lịch sử nước nhà. Qua đó, ta thấy được sức mạnh đại đoàn kết của quân nhân ta và hình ảnh người anh hùng áo vải QT-NH. Ông cha ta đã có công giữ nước chống giặc ngoại xâm, thế hệ chúng ta ngày nay phải gìn giữ và xây dựng đất nước ngày càng phát triển hơn. Bài văn hay kể lại một trận chiến đấu ác liệt đã học, được kể hay đã xem Kể lại một trận chiến đấu ác liệt đã học, được kể hay đã xem – Bài làm 10 Cuối năm Mậu Thân 1788, nhân dân Thăng Long và Bắc Hà phải chịu đựng những ngày tháng đau thương, tủi nhục vì nạn ngoại xâm. Lợi dụng sự cầu cứu của Lê Chiêu Thống, 290 nghìn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị thống lãnh, đã tràn vào chiếm đóng kinh thành và kiểm soát phần lớn đất Bắc Hà. Quân đồn trú Tây Sơn do tướng Ngô Văn Sở chỉ huy, đã theo kế sách mưu trí của tiến sĩ Ngô Thì Nhậm, lui về giữ phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn. Giành được thắng lợi tương đối dễ dàng, Tôn Sĩ Nghị tỏ ra rất chủ quan. Hắn ra lệnh cho quân sĩ tạm đóng quân ở Thăng Long để nghỉ ngơi ăn tết và chuẩn bị mọi mặt thật chu đáo rồi sau tết sẽ “tiến vào tận sào huyệt của giặc, bắt sống Nguyễn Huệ” Hoàng Lê nhất thống chí, Hắn đóng đại bản doanh ở cung Tây Long bên bờ sông Nhị và bố trí lực lượng phòng thủ quanh Thăng Long, nhất là hướng đường thiên lý và đường thượng đạo mà quân Tây Sơn có thể bất ngờ tiến công. Trên hai hướng phòng ngự này, đồn Ngọc Hồi và đồn Đống Đa giữ vị trí then chốt. Những ngày giáp tết năm đó, nhân dân kinh thành đã chứng kiến biết bao tội ác của quân giặc ”kiếm mọi cách vu hãm những người lương thiện, áp bức, cướp bóc những nhà giàu có, thậm chí giữa chợ, giữa đường cũng cướp giật của cải, hãm hiếp đàn bà, không còn kiêng sợ gì cả”; và sự phản bội hèn mạt của bọn bán nước ”nước Nam ta từ khi có đế, có vương đến nay, chưa bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế” Hoàng Lê nhất thống chí. Nhưng cũng trong thời gian đó, tại Phú Xuân, ngày 24 tháng 11 Mậu Thân 21/12/1788 Quang Trung nhận được tin cấp báo và ngay hôm sau làm lễ xuất quân. Với những phán đoán tình hình và công việc chuẩn bị được trù liệu trước, chỉ trong vòng 35 ngày từ 25/11 đến 30/12 Mậu Thân 22/12/1788 – 25/1/1789, trên đường hành quân và tập kết đại quân ở Tam Điệp, Quang Trung đã hoàn tất mọi việc chuẩn bị cho chiến dịch đại phá quân Thanh. Đúng đêm giao thừa Tết Kỷ Dậu, quân Tây Sơn bất ngờ tiến công tiêu diệt đồn tiền tiêu của giặc ở Gián Khẩu, cách Thăng Long gần 90 km, mở đầu cuộc đại phá quân Thanh. Sau 5 ngày đêm tiến quân thần tốc, đạo quân chủ lực của Quang Trung đã phá tan hệ thống phòng ngự của địch trên hướng đường thiên lý tiến về Thăng Long. Mờ sáng mùng 5 tết 30/1/1789, đạo quân chủ lực của Quang Trung phối hợp với đạo quân đô đốc Bảo công phá và tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Ngọc Hồi – Đầm Mực. Cùng lúc đó, đạo quân do đô đốc Long chỉ huy, bất ngờ diệt đồn Đống Đa rồi đánh thọc sâu vào đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị ở cung Tây Long. Sự phối hợp hai trận đánh Ngọc Hồi, Đống Đa làm cho Tôn Sĩ Nghị hết sức bất ngờ, choáng váng và lâm vào thế hoàn toàn bất lực, sụp đổ. Với cả một lực lượng dự bị khá lớn ở tổng hành dinh, nhưng viên chủ soái quân Thanh đành phải tháo chạy trong cảnh hoảng loạn và tan rã. Trên đường tháo chạy, chúng lại bị một cánh quân Tây Sơn khác chặn đánh ở vùng Yên Thế, Phượng Nhãn, Lạng Giang và bị bồi thêm những đòn tổn thất nặng nề. 35 ngày chuẩn bị trên đường hành quân dài khoảng hơn 500 km từ Phú Xuân đến Tam Điệp và 5 ngày đêm tiến công tiêu diệt trên một tuyến phòng ngự dài khoảng 90 km từ Gián Khẩu đến Thăng Long, quân Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của Quang Trung đã đạt mức kỷ lục về tính thần tốc trong hành quân chuẩn bị và tiến công tiêu diệt địch. Đại thắng Thăng Long xuân Kỷ Dậu 1789 là một trong những vũ công hiển hách nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Đó là chiến thắng tiêu biểu cho đỉnh cao của sự phát triển và thắng lợi của phong trào Tây Sơn, được tạo nên bằng sức mạnh quật khởi của nông dân kết hợp với sức mạnh yêu nước và đoàn kết của cả dân tộc. Trong hàng ngũ quân đội Tây Sơn lập nên vũ công mùa xuân đó có những người đã tham gia dấy nghĩa từ đất Tây Sơn, có những con các em dân tộc Tây Nguyên chuộng tự do phóng khoáng, có những người dân khắp mọi miền của đất nước đã tự nguyện đứng dưới lá cờ nghĩa Tây Sơn, có những trí thức yêu nước như Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Thiếp… những võ quan cũ của chính quyền Lê – Trịnh như Đặng Tiến Đông…, những tướng soái Tây Sơn đã đày dạn chiến trận như Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết… . Đó là chiến thắng của quân đội Tây Sơn với quyết tâm và ý chí đánh cho nó ”chích luân bất phản”, đánh cho nó ”phiến giáp bất hoàn”, đánh cho ”sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”. ý chí đó lại được nhân dân hết lòng giúp đỡ. Và như chúng ta đã biết, trên đường hành quân chiến đấu của quân Tây Sơn, nhân dân đã cho con em mình gia nhập nghĩa quân, đã tiếp tế lương thực, giúp các phương tiện vượt sông… Nhân dân các làng xã quanh Thăng Long đã giúp quân Tây Sơn bí mật giấu quân ém sát đồn giặc, góp ván gỗ làm mộc công phá đền Ngọc Hồi, đã phối hợp làm trận rồng lửa trong trận diệt đồn Đống Đa… Bằng lối đánh thần tốc và một thế trận lợi hại kết hợp tiến công chính diện mãnh liệt với những mũi thọc sâu bất ngờ và những mũi vu hồi sau lưng, Quang Trung với số quân chỉ hơn 10 vạn, nhưng đã đặt Tôn Sĩ Nghị và 29 vạn quân Thanh vào thế hoàn toàn bị động, bất ngờ đi từ thất bại này đến thất bại khác và cuối cùng phải chấp nhận sự thảm hại, tháo chạy trong hoảng loạn. Đại thắng Xuân Kỷ Dậu 1789 biểu thị tập trung thiên tài quân sự của Quang Trung Nguyễn Huệ. Cũng ngay sau khi cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi, Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích dùng mọi biện pháp ngoại giao mềm mỏng và tích cực để nhanh chóng lập lại quan hệ hòa hiếu với nhà Thanh. Chỉ trong vòng nửa năm, hai bên đã thông sứ bộ và sau đó, quan hệ bang giao và buôn bán giữa hai nước đã được khôi phục. Trên đây là những bài văn mẫu kể lại một trận chiến đấu ác liệt đã học, được kể hay đã xem lớp 9 hay nhất. Qua đây, hẳn các em cũng đã biết thêm nhiều về các trận chiến của quân và dân ta. Chúc các em có thể làm tốt đề văn này. Thu Thuỷ Hướng dẫn II. Mở bài Giới thiệu về trận chiến mà em sắp kể. II. Thân bài -Em biết đến trận chiến này ở đâu? qua sách báo, tivi hay nghe kể lại. -Thời gian diễn ra trận chiến? địa điểm diễn ra trận chiến, chống giặc nào? -Người lãnh đạo -Diễn biến chính của trận chiến diễn ra. + Chuẩn bị trận chiến. + Giai đoạn tấn công + Kết quả của trận chiến – Kết quả + Quân ta giành thắng lợi. + Quân địch thua tan tác, tháo chạy. – Ý nghĩa của trận chiến em vừa kể. III. Kết bài – Cảm nghĩ về trận chiến mà em vừa kể lại. – Tự liên hệ với bạn thân và trách nhiệm của cá nhân trong thời đại hòa bình. Bài văn mẫu Quay ngược thời gian trở về thời kì phong kiến của nước ta, giai đoạn mà vua Quang Trung đại phá quân Thanh giúp bảo vệ đất nước khỏi nguy cơ bị xâm chiếm từ thế lực phương Bắc đó là trận chiến sống còn Ngọc Hồi- Hà Hồi diễn ra vào năm 1789. Nước Đại Việt giai đoạn cuối thế kỷ 18 chia cắt với nhiều thế lực chia nhau chiếm giữ đất nước. Lê Chiêu Thống ở phía Bắc thất thế bèn cầu cứu nhà Thanh, lấy cớ “phù Lê” quân Thanh tiến vào nước ta mà không hề tổn hại một binh lính. Năm 1788 Nguyễn Huệ đã lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung, vua họp bàn và quyết định tiến quân ra phía Bắc, trở thành cuộc hành quân thần tốc nhất trong lịch sử. Trước khi xung trận vua Quang Trung động viên tinh thần của các binh lính, đêm 29 Tết đánh đồn sông Gián Khẩu và 30 Tết đánh đồn Hà Hồi. Đồn Ngọc Hồi vấp phải sự khó khăn nguyên nhân thành vững chãi, thủ dễ công khó, vì vậy quân ta chuẩn bị ba tấm ghép thành một bức lấy rơm dấp nước phủ kín, cứ mười binh lính khênh một bức, lưng mỗi người đều có dắt dao ngắn để dễ bề hành động khi giáp là cà, triển khai đội hình theo chữ “nhất”, phía sau là dàn binh lính do chính nhà vua chỉ huy, có nhà vua trực tiếp lãnh đạo khí thế quân Tây Sơn rất mạnh mẽ. Trận đánh đồn Ngọc Hồi diễn ra lúc rạng sớm, tờ mờ sáng quân Tây Sơn bao vây đồn mà quân địch không hay biết, khi phát hiện bị bao vây quân Thanh bắn mũi tên lửa và bị cản bởi tấm ván, thời tiết lúc này có gió Bắc nên quân địch bắn tên lửa khiến khói mù mịt nhưng đột nhiên trở gió Nam thổi ngược lại càng khiến quân địch hoảng loạn. Trước tình hình rối ren đó quân Tây Sơn thừa thắng xông vào, phía trước có ván bảo vệ, phía sau là đội quân áp sát, tiếng va chạm gương, giáo, mác thật ác liệt. Nhờ lợi thế về tình hình thời tiết, địa hình quân ta giành ưu thế. Vua Quang Trung ngồi trên voi, dẫn đường, đạo quân cứ thế xông lên tiêu diệt địch một cách dễ dàng. Bị bao vây, mai phục đồn Ngọc Hồi chịu cảnh thất thủ, quân địch chết la liệt, Sầm Nghi Đống phải treo cổ tự tử, quân còn lại chạy bán sống bán chết, số quân địch còn lại bị bắt làm tù binh. Sáng mùng 5 tiến công và chỉ trưa quân Tây Sơn chiếm xong đồn Ngọc Hồi, vua cùng quân đội tiến vào thành trong sự chào đón nhiệt liệt của người dân. Cuộc hành quân thần tốc, khiến kẻ địch không kịp trở tay và tài lãnh đạo tài tình, chiến lược của nhà vua giúp quân Tây Sơn giành chiến thắng vang dội. Mỗi cuộc trận chiến đều có sự lãnh đạo tài tình, chiến lược tài giỏi và tinh thần của quân đội đó là những yếu tố giúp vua Quang Trung làm nên chiến thắng lịch sử. Bài văn trên tái hiện lại trận chiến lịch sử của vua Quang Trung trước quân Thanh giúp bảo vệ hòa bình của nước nhà trước thế lực ngoại bang. Topics Cảm nghĩ chiến thắng giới thiệu thời gian 1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý 2. Dàn bài chi tiết a. Mở bài Đất nước ta đã có bao nhiêu trận chiến đấu các liệt với những chiến công hiển hách. Trận chiến đấu… đã để lại cho em những cảm xúc khó phai. b. Thân bài Kể khái quát về trận chiến đấu Diễn ra vào năm nào? Ở đâu? Ở thời kì nào? Chống giặc ngoại xâm nào? Mục đích của trận chiến đấu? Em đã được biết về trận chiến ấy từ ông bà kể lại hay sau khi học môn Lịch sử hoặc sau khi xem phim? Kể lại diễn biến chính của trận chiến đấu qua các giai đoạn Chuẩn bị, phòng ngự. Tấn công tư thế chủ động, tinh thần dũng cảm, quyết chiến quyết thắng của quân ta; sự chống trả của địch… Lưu ý Kết hợp miêu tả tư thế, hành động của ta, của địch; tả quang cảnh của trận chiến… Khi kể, chú ý làm nổi bật vai trò của vị chỉ huy tài giỏi, anh dùng và một vài chi tiết thể hiện tinh thần quả cảm của quân ta. Kể lại kết quả của trận chiến đấu Quân ta chiến thắng kết hợp với miêu tả không khí chiến thắng, nét mặt, nụ cười của những người lính và những hi sinh mất mát… Quân địch thất bại kết hợp với miêu tả không gian hoang tàn sau trận chiến, hình ảnh những tên lính còn sống sót… Ý nghĩa của trận chiến đấu trong lịch sử c. Kết bài Cảm xúc, suy nghĩ của em về trận chiến đấu ác liệt ấy Tự hào về lòng yêu nước của các thế hệ cha ông, về những trang sử vàng của dân tộc ta. Suy nghĩ, liên hệ tới bổn phận của cá nhân và thế hệ sau. Bài văn mẫu Đề bài Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh. Gợi ý làm bài Lịch sử Việt Nam là lịch sử của những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Đó là những lần đánh tan quân Nguyên – Mông xâm lược của vua tôi nhà Trần, là chiến thắng Bạch Đằng lẫy lừng của Ngô Quyền,… Và đặc biệt là chiến công thần tốc của vua Quang Trung – Nguyễn Huệ. Em đã được đọc trận chiến này trong hồi thứ 14 của tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” Ngô gia văn phái trong sách Ngữ Văn lớp 9 tập 1. Quân Thanh viện cớ sang trợ giúp triều đình nhà Lê, dẫn quân xâm lược, chiếm đóng nước ta. Quân Thanh sau khi chiếm đóng lập tức trở nên ngạo mạn, gây ra rất nhiều tội ác. Vì được vua Lê nhượng bộ nên chúng ra sức vơ vét của cải nhân dân ta, ăn chơi, hưởng thụ. Do đó, đất nước ta đã phải rơi vào ách đô hộ, nhân dân phải chịu cảnh lầm than, khổ cực. Quả thật đáng thương xiết bao! - Để xem được đầy đủ tài liệu,mời quý thầy cô và các em vui lòng đăng nhập vào HOC247 để dowload tài liệu về máy - Chiến công thần tốc đại phá quân Thanh đã ghi một dấu ấn vẻ vang, đã viết thêm một trang vàng chói lọi cho lịch sử nước nhà. Qua đó, ta thấy được sức mạnh đại đoàn kết của quân nhân ta và hình ảnh người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ. Cuộc chiến vẫn còn tiếp tục, nhưng rõ ràng rằng phần thắng sẽ thuộc về những lý tưởng chiến đấu vì chính nghĩa. Tinh thần hy sinh và tài năng của dân tộc ta một lần nữa được khẳng định với bạn bè năm châu khi một lần nữa nhắc lại chiến công oai hùng. Chúng ta tự hào về lòng yêu nước của các thế hệ cha ông, về những trang sử vàng của dân tộc ta. Ông cha ta đã có công giữ nước chống giặc ngoại xâm, thế hệ chúng ta ngày nay phải gìn giữ và xây dựng đất nước ngày càng phát triển hơn. Trên đây chỉ trích dẫn một phần sơ đồ tóm tắt gợi ý được trình bày dưới dạng sơ đồ tư duy, giúp các em dễ dàng trong việc ghi nhớ kiến thức; kết hợp với dàn bài chi tiết và bài văn mẫu. Hi vọng, bài văn tự sự kết hợp yếu tố miêu tả và biểu cảm Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh sẽ giúp ích cho quá trình dạy và học của quý thầy cô giáo và các em học sinh, giúp những tiết học Văn sinh động và hiệu quả hơn. Mời thầy cô và các em cùng tham khảo. - MOD Ngữ văn HOC247 Tổng hợp và biên soạn

kể lại một trận chiến đấu ác liệt